1. Về Bạc Liêu mà không ghé qua nhà “Hắc công tử” quả là một thiếu sót lớn! Nói ghé cho bảnh, chứ thật ra là để thoả mãn tính hiếu kỳ. Tất nhiên bạn phải trả tiền. Trả nhiều nữa là đằng khác để có thể được ở chính cái phòng của một đại gia nức tiếng ăn chơi một thuở. Để một đêm “được làm công tử” tha hồ mà tưởng tượng và để cảm nhận về một vùng đất lẫn con người quê xứ Bạc Liêu. Không ngờ, anh chàng tiếp tân lắc đầu. Hết phòng rồi! Anh ta đưa tôi tấm card, lần sau có đến nhớ gọi điện trước để đặt phòng.

Đâu chỉ mỗi mình tôi “hiếu kỳ, sau lưng tôi còn có nhiều người đến tìm “công tử”. Họ là những “cậu ấm cô chiêu”, đi xe xịn bảng số tỉnh An Giang, Kiên Giang… Tóc nhuộm hi-light, kính đen trông thật điệu đàng của dân “chơi” miệt tỉnh. Cái tên “công tử Bạc Liêu” giờ cũng đã trở thành thứ mốt thời thượng cho cả những quan “tai to mặt lớn”, bụng bự, chiều chiều vác vợt tennis ra vô phòng ở của “công tử Bạc Liêu” để biểu diễn hơn là chơi thể thao. Họ không “tò mò” về công tử Bạc Liêu như những người khác mà lại muốn được người đời nhìn mình với ánh mắt thán phục “kẻ biết ăn chơi”.
Họ cũng là những “đại gia” hiện đại của thời ăn chơi không phải bằng tiền của mình. Hồi xưa, “đại gia ba Huy” tiêu xài thả cửa nhờ tiền góp lúa, góp muối, mở sòng bạc của cha mình – ông hội đồng đại địa chủ Trần Trinh Trạch. Đất cả tỉnh Bạc Liêu này gần như thuộc về tài sản của gia đình ông. Không chỉ có bấy nhiêu mà còn nhiều đồn điền ở các tỉnh khác. Với hơn 140.000 mẫu ruộng đất thì “ăn” đến đời nào cho hết! Vậy mà thế thời bỗng chốc, phủi một cái trắng tay. Trừ những con cháu ở Pháp, chứ những người còn lại ở xứ Bạc Liêu này, hiện giờ cuộc sống cũng khốn khó!
“Đừng viết về dòng họ nhà tui mà lòng thêm xót, thêm tủi thân, không dám nhìn thiên hạ – người cháu nội của nhà tỷ phú họ Trần- nói nhỏ với tôi. Xót lắm chớ! Xót như xát muối trong lòng! Mỗi ngày đi ngang cái nhà của ông nội mình mà không dám nhìn vô. Cái tượng của ổng còn ở trong đó, đặt trên bàn để khách ra vào nhìn nhìn ngó không biết để thán phục hay để chê bai, trách móc ông khi xưa ăn ở thế nào mà giờ con cháu ra nông nổi. “Có ai giàu ba họ, có ai khó ba đời”. Anh nói lời này như một lời an ủi, và cho đó là phần số. Trách ai bây giờ, tạo nghiệp thì phải trả cho xong nghiệp quả! Chỉ tự trách dòng họ mình bất tài, kém đức!
Trước khi về, anh còn quay lại dặn: “Nếu anh có viết gì thì đừng nói tui quê xứ Bạc Liêu!”

2. Sao kỳ vậy? Người Bạc Liêu sao lại không yêu quê xứ của mình. Cũng như người cháu của ông Hội đồng Trạch giàu có, anh Mười Đủ kể rằng ông nội anh hồi xưa cũng do cái sòng “hốt me” trong nhà của ông Hội đồng mà nội anh đã cầm cố ruộng vườn tài sản. Thời đó ai mà không dính vào một trong bốn thứ ăn chơi của đất Bạc Liêu? Vì thế mà đời cha anh nghèo, nên khi cha anh sanh ra anh, đặt tên là Đủ với chỉ mong ước con cái đủ ăn là tốt lắm rồi.
Nhưng oái ăm là đủ đâu không đủ mà toàn là thiếu. Hồi trước con cái nheo nhóc, thiếu trước hụt sau, vợ chồng anh phải bươn chải đi mua bán cá biển ở miệt chợ nổi sông Gành Hàu. Cuộc sống thương hồ thiếu thốn mọi bề, con cái không làm sao được đi học. Nhiều đêm vắt tay lên trán nằm suy nghĩ, mà giấc ngủ chập chờn, rồi mơ màng. Thấy mình được đủ đầy, con cái được học hành, có nhà cửa đàng hoàng mừng mà khóc nước mắt chảy đầm đìa ướt cả quần áo. Giật mình tỉnh giấc thấy nước xì vào lé đé ván lòng ghe, ướt cả vạt quần. Hai vợ chồng hoàn hồn vào khoang tìm mấy đứa nhỏ. Tụi nó cũng nằm mơ như mình, chân buông thỏng xuống nước, mơ giấc mơ lên bờ.
Bán ghe. Về lại thị xã. Nhờ trước đây có tú tài một, nên hai vợ chồng anh may mắn được nhận vô làm giáo viên tiểu học. Vì thế mà con cái cũng có chỗ học hành. Lương ba cọc ba đồng, chèo chống hơn chục năm, nào ngờ, họ bảo không có bằng chuyên môn… Học gì nổi chứ ngần tuổi này – anh Mười Đủ nói để giải thích vì sao anh phải bỏ nghề dạy học. Tôi chạy xe ôm đắp đổi qua ngày. Mấy đứa con lớn hết rồi, đều đi làm cả. Bà xã tôi cũng nghỉ dạy luôn, ra chợ mua bán. Bây giờ có đủ thiếu gì cũng được. Không phải lo tụi nhỏ nữa, mà chúng cũng chịu siêng mần.
Anh Mười Đủ đưa tôi sang trường đại học tại chức của tỉnh (trước đây là dinh tỉnh trưởng) để xem cái đồng hồ gạch của nhà bác vật Lưu Văn Lang xây nên vào đầu thế kỷ 20, tính đến nay hơn trăm năm tuổi. Đồng hồ gạch này giống như thứ đồng hồ Thái dương xuất hiện từ thuở xa xưa, khi loài người chưa có ngành máy móc, cơ khí.
Đồng hồ này cao chừng mét có bảng khắc giờ sơn đỏ chữ số La Mã theo các vạch hình bán nguyệt trên mặt phẳng của hai mặt gạch tàu xây vuông. Ở giữa có cột gạch. Sáng sớm, khi mặt trời lên, bóng cột gạch đổ lên chữ số chỉ giờ. Mặt trên lên đỉnh bóng đổ 12 giờ. Xế chiều, bóng dần nghiêng, hạ dần xuống bậc tam cấp là mặt trời lặn. Đồng hồ chỉ có công dụng khi có ánh sáng mặt trời.
Anh Mười Đủ giới thiệu chiếc đồng hồ này với tôi y như anh là một hướng dẫn viên du lịch. Tuy vào thời gian ấy trong nước đã có đồng hồ Tây treo tường, để bàn, hoặc đồng hồ quả quýt bỏ túi, nhưng những thứ đó chỉ những nhà giàu mới có. Người dân quê vẫn nhìn mặt trời mà đoán thời khắc trong ngày. Và cái đồng hồ “Thái dương” của ông khi đó trở thành một cái đồng hồ đặc biệt, có một không hai ở Việt Nam. Trước sân lâu đài Windsor ở Anh quốc, ngày nay vẫn còn tồn tại cái đồng hồ Thái dương như thế này. Thế nhưng người ta biết bảo tồn và trân trọng nó, một kỷ vật có tính lịch sử. Còn ở đây, chiếc đồng hồ này lại bị đối xử một cách thờ ơ, nằm trong một khuôn viên của trường đại học, nơi tập trung của trí tuệ thế mà chung quanh chiếc đồng hồ thái dương lại bị cây che khuất ánh sáng trời, mặt đồng hồ rêu xanh đóng áo!
3. Thương lắm, thương những người dân Vĩnh Lợi tảo tần cuộc sống. Tuy là một huyện duyên hải giáp ranh thị xã, Vĩnh Lợi lại là một huyện có nhiều xã nghèo. Trước đây Vĩnh Lợi cũng đã từng nghèo rồi nên giờ có nghèo thêm người dân cũng đâu có lạ gì. Vùng duyên hải từ huyện Vĩnh Lợi đổ xuống Gành Hàu toàn là bãi bùn bồi đất, nên nước biển cứ đục ngầu, bàng bạc quanh năm. Bần mọc ven bãi không khai thác được gì mà lại mang thêm nỗi buồn xứ biển. Cuộc sống con người ở đây hầu hết làm nghề hạ bạc đúng như cái tên Pô Léo của người Triều Châu khi xưa đã đến vùng đất này khai phá và đặt tên. Pô Léo có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Người mình phát âm theo tiếng Việt đọc thành Bạc Liêu. Cho nên hồi xưa người ta nói: “Bạc Liêu là xứ quê mùa/ Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu”.
Cá chốt ngày nay ở các vùng kênh rạch ở Bạc Liêu cũng không còn. Người Triều Châu (Tiều) giỏi làm ăn cũng vượt biên gần hết. Muối Bạc Liêu xưa kia ngon nhờ lẫn vị ngọt ngào của đất, nay cũng không còn khai thác. Nhãn vườn Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu nổi tiếng một thời, giờ đây đã cằn cỏi, quằn cong theo năm tháng. Đốn thì tiếc, nên người dân giữ lại cho mát vườn chứ chẳng lợi lộc gì. Thôi thỉnh thoảng có dăm trái thu hoạch còn được đồng ra đồng vô, chứ đốn bỏ biết làm gì ăn khi trong tay không có đồng vốn. Cái vòng nghèo khó nó trói con người ở yên một chỗ, không cách vẫy vùng. Những mái nhà xiêu vẹo, phơi mình dưới nắng bạc chơi vơi.
Rồi bỗng nhiên, con cái của nhiều hộ dân ở vài xã trong huyện phá bỏ cái vòng vây nghèo khó bằng cách đi lấy chồng Đài Loan. Ban đầu một hai nhà có con gái lấy chồng bên đó về thăm, cho tiền ba má xây cất nhà gạch. Thấy ham, nên nhiều bà con gửi gấm, riết rồi cò mối thấy làm mai ăn được nên nhào vô giới thiệu. Dần dần cái xã Hòa Hưng, Vĩnh Lợi này con gái hễ lớn lên là mai mối tìm đến tận nhà rồi kéo nhau đi mất biệt.
Ông Năm Đực ngồi bên hiên mái tranh xơ xác hướng nhìn ra biển. Tôi hỏi ông có buồn không? Ông không trả lời, lặng lẽ đốt từng hơi thuốc. Cô con lớn đi làm dâu Đài Loan gần hai năm nay rồi mà không thấy về thăm. Lâu lâu mới nhận được lá thư viết rằng “Con vẫn khoẻ, tía má đừng buồn!” Không buồn sao được – ông Năm lên tiếng – Không biết cuộc sống của nó ra sao mà không nghe nói. Tui đâu có cần tiền bạc của nó gửi về mà chỉ muốn biết nó có được cuộc sống hạnh phúc không thôi. Cũng vì mảnh đất ông bà mà tôi không dọn về ở chợ. Hơn nữa đất này bán được bao tiền. Làm vuông cũng không xong, nước mặn quá, mặn đắng cả lòng! Con người còn sống nổi trôi huống gì con tôm. Cả nhà trông chờ vào má nó với cái gánh bánh tráng nướng bán rong ngoài chợ. Thằng anh nó gần bốn chục tuổi đầu rồi tối ngày mò cua bắt ốc, chưa tìm ra vợ. Buồn, nhiều khi nhậu nhẹt say sưa đòi đốt nhà?đi nơi khác mần ăn!. Con em nó, bây giờ nhác thấy người lạ vào nhà là sợ chạy ra rạch biến mất. Ờ mà chú có thiệt không phải người Đài Loan? Bất ngờ ông Năm hỏi làm tôi mắc cười về cái bộ dạng của mình. Không sao! Câu hỏi này, nghe quen lắm!
Ngoái lại nhìn căn nhà gió giật đùng đùng trước biển của quê xứ Bạc Liêu trông như cánh buồm gập gãy, bỗng thấy cổ họng mình tự dưng khô đắng.