Ngoại trừ cố đô Yangon phiền não, cả bốn cố đô vừa đi qua đều để lại nhiều lưu luyến. Nhưng rồi cũng đến lúc từ giã, xuôi dòng sông Voi về cố đô Bagan cách Mandalay gần 150 cây số. Sau này mỗi khi nhớ lại những ngày ở Miến Điện, tôi đều thấy bầu khí Bagan mới thực sự để lại nhiều dấu tích trong lòng nhất trong các chuyến giang hồ.
Từ Khanh
Trên tàu chợ đi Bagan
Lúc ở Yangon hỏi cách đi, tiếp viên nhà trọ tư vấn sai bét. Họ nói mùa mưa chỉ có tàu đi từ Mandalay xuôi dòng xuống Bagan, chứ từ Bagan lên Mandalay không có tàu thủy vì ngược nước. Họ lại nói có tàu cao tốc rất thoải mái, an toàn, ngày nào cũng có chuyến. Tất cả thông tin từ người địa phương đều ngược lại. Thực ra, mùa mưa từ tháng Năm đến tháng Chín mỗi tuần chỉ có hai chuyến tàu chợ nối Mandalay và Bagan (cả hai chiều chứ không có chuyện ngược dòng tàu chạy không được). Tàu cao tốc hoàn toàn không có. Thông tin vào thời điểm tôi đi cũng chỉ đúng vào thời điểm tôi đi. Tốt nhất là không tin ai cả vì lịch vận tải ở Miến Điện tùy hứng.
Tôi cứ hình dung sẽ đi một chiếc tàu lớn, có ban công, các băng ghế ngồi đặt ở giữa chiếc tàu thủy to rộng, sẽ có một quầy bar bán cà phê lai rai, mình sẽ đi lên đi xuống bong tàu, hay lên sân thượng ngắm hai bờ Tượng Giang. Một thủy trình nhàn nhã phong lưu xuôi theo dòng nước đến cố đô cũ một ngàn năm: Bagan.
Lên xuống tàu chợ
Nhưng than ôi, 4 giờ rưỡi sáng đến bến phà Manadalay để đi tàu chợ xuôi dòng về Bagan mới té ngửa. Trong bóng tối Mandalay, bến tàu chỉ thắp một ngọn đèn néon sáu tấc, những bóng người tụm năm tụm ba trên bờ, không có một bảng hướng dẫn nào hay ít ra một bảng chỉ đường gì đó. Tôi hỏi anh xe ôm “Bagan Bagan?”, anh ta chỉ tay vào một lối đi tối thui không thấy gì cả, ra dấu xuống dưới bến. Đúng là bến sông dốc, một tấm ván bắt từ bờ lên một chiếc tàu sắt, người lên kẻ xuống chen nhau trên “cầu tàu” rất nguy hiểm, chỉ bị lấn nhẹ một cái là lọt sông ngay. Đi ngang qua chiếc tàu lớn, cứ theo người mà đi, rồi bước qua một chiếc tàu nhỏ hơn, trên tàu này người địa phương nằm ngồi la liệt không có chỗ đặt chân, cứ sợ dẫm phải con nít và phụ nữ vắt vẻo nằm ngồi dựa ngã trên những bao hàng hóa thúng mẹt. Trước tôi đã có ba anh Tây ba lô đang lúng túng không biết nên tiến hay lùi, cuối cùng tôi thấy họ đi ngược lên bờ. Tôi hỏi anh mặc áo trắng kiểu áo thuyền viên, “có phải tàu này đi Bagan chứ”, anh ta hỏi vé tàu, nhìn rồi chỉ bậc thang dẫn lên bong trên, “anh cứ lên trên đó, ngồi ở góc đầu mũi tàu”.
Tầng trên tàu chợ
Tôi chen lấn một hồi cũng leo lên tới tầng trên. Miễn tàu đi Bagan là được, nó có chạy rì rì thì trước sau cũng tới. Mỗi tuần chỉ có hai chuyến tàu chợ từ Mandalay đi Bagan, giá vé 10 đô còn kén cá chọn canh cái nỗi gì. Tự an ủi thế cho đỡ ngán, chứ nhìn người ta la liệt trên sàn tàu không khác gì cảnh chạy giặc tản cư, ngó quanh chỉ thấy vài cái phao cấp cứu trong khi tàu ước vài trăm người. Tôi đã dự trù trường hợp xấu nhất là tàu chìm, nên laptop gói kỹ trong bao không thấm nước, hộ chiếu cũng cho vô bao chống thấm, còn máy hình thì để sẵn một túi nhỏ chống thấm bên cạnh sẵn sàng ứng chiến, tàu mà chìm là ôm mấy bửu bối đó bơi vài trăm mét chắc không đến nỗi chết trôi.
Chỗ gần mũi tàu mà anh thuyền viên chỉ có để mười mấy cái ghế nhựa có lưng tựa, khu này dành riêng cho người nước ngoài, nhìn những người dân địa phương buôn thúng bán bưng nằm ngồi chỉ cách mình một thước, tôi thấy quả là mình đang ngồi ở khu hạng Nhất rồi. Họ ngước mắt nhìn vài người nước ngoài lục tục đến có vẻ hâm mộ một cách tội nghiệp. Nhưng biết làm sao, thông cảm nghe bà con, lạ nước lạ cái, mà người ta dành cho tôi chỗ ngồi này chứ có dành giựt ai đâu.
Trong ánh sáng nhạt nhạt của ngọn đèn nhỏ trên trần, trong không gian tràn ngập mùi người, mùi ớt bột, mùi cà ri, tiếng người lên xuống xôn xao, chợt có mùi gội đầu của phụ nữ thơm thơm phả đến. Một cô gái trông như người Nhật, áo tím, ba lô lớn trên lưng, ba lô nhỏ trên tay, tay kia cầm một cái quạt có viền trắng phe phẩy, cổ đeo máy hình, kéo ghế ngồi xuống bên tôi. Hình như tôi khéo tu nên có số quen con gái Nhật, mà toàn là các em xinh xắn to con, a ha, một hành trình dài mà có một em xinh xinh ngồi cạnh thì sông nước dẫu có vô tình cũng vui nữa là.
Giờ khởi hành là năm giờ rưỡi, nhưng cũng như xe dù bên mình, các bác tài công cứ chờ rước thêm khách, người cứ lên đều đều, xích vô một chút, lấn qua bên kia một chút, hành lý chồng lên tí, co chân vào chút xíu, khu hạng Nhất của tôi cũng đã tràn người, bây giờ thì họ ngồi ngay dưới sàn, hàng hóa cứ lên, không có một sự an toàn đường sông nào. Má ơi, may mà hồi nhỏ con dân xứ biển, suốt đời trai trẻ trốn học rong bơi nên vẫy vùng dưới nước cũng khá, không đến nỗi lo lắng quá.
Sáu giờ rưỡi, một hồi còi vang lên. Tạm biệt Mandalay, tạm biệt ngọn đồi linh hiển, cố đô Amarapura, chùa Thạch Kinh (Kuthodaw Pagoda), đồi Sagaing, tạm biệt cầu gỗ U Bein, cao nguyên Pin Oo Lwin mà tôi gọi là Phố Mây, những người Mandalay hiền lành chậm chạp.
Tôi lưu luyến Mandalay và chợt thấy ngùi ngùi. Không biết do còn duyên nợ không mà trong chuyến từ giã Bagan mấy ngày sau để bay về Yangon kết thúc cuộc đi rong, tôi xuống nhầm máy bay ở Mandalay một lần chót. Số là Air Bagan không bay thẳng từ Bagan đi Yangon. Do ít khách nên nó ghé qua Mandalay, tức bay vòng lên hướng bắc, thả và đón khách ở Mandalay rồi mới trực chỉ Yangon. Khi dừng ở Mandalay, tôi thản nhiên xuống phi cơ, lên xe, xuống xe, đi một mạch ra đường cái, vì cứ ngỡ là mình đã tới Yangon rồi dù có hơi ngờ ngợ vì thấy sao phi trường này quen quen. Khi đang trả giá taxi, anh taxi nói 18 đô trong khi tôi nhớ như in từ phi trường Yangon về thành phố chỉ năm đô thì chợt có tiếng nói đàng sau:
– Ông cho tôi xem vé lên tàu.
Tôi tính nổi nóng vì đã xuống tới nơi còn cần “boarding pass” làm gì. Tôi hỏi “tại sao, tôi liệng nó rồi” thì người đàn ông hỏi tiếp:
– Ông đi đâu?
– Yagon.
– Thưa ông, đây mới chỉ là Mandalay.
Tôi ngớ ra, lật đật lục tìm vé lên tàu, may còn giữ trong túi. Người đàn ông vui vẻ nói “ông theo tôi ra lại phi cơ, yên tâm không có gì đâu”,rồi vừa dẫn đường vừa nói gì đó vào bộ đàm. Khi tôi đứng ở hàng hiên phòng chờ, một chiếc xe ca lớn chạy lại đón một mình tôi lên chiếc máy bay đang đậu chờ giữa đường bay. Đúng là hai lúa lên tỉnh, nhưng trong lòng cũng thấy thích thú vì Mandalay không phụ tình tôi mấy mươi năm muốn đến, “nó” níu tôi lại một khoảnh khắc.
Chợt cô em người Nhật khều tay, nói nhỏ: “Ăn cái này không?” Ba giờ rưỡi sáng tôi đã dậy, đêm trước xin một bình thủy nước nóng để sẵn trong phòng, sáng làm hai gói mì gói, ăn nửa trái thơm mua ngoài đường, vẫn còn no.
Cô Nhật cầm cái bao ny lông trong có hai lát bánh mì săn uých, hai trái chuối già đã bầm dập chảy nước. Bánh mì thì tôi ăn không được, chuối cũng không vì có ông lương y kia dặn bao tử yếu ăn chuối già nặng bụng. Ôi mấy cha lương y lẩm cẩm, người đẹp mời ai lại từ chối chứ, kỳ thế. Tôi thản nhiền thò tay vô bao ny lông lấy một trái chuối, ăn ngon lành trong hương thơm của tóc một sáng tinh mơ sương khói tràn hai bờ sông lạ.
Mặt trời vừa chơm chớm, nắng phớt vàng phớt lướt trên dãy núi hai bên bờ, lưng chừng sườn núi điểm xuyết những ngôi tháp vàng rực rỡ trong ánh bình minh. Sông thật êm, tàu chợ nhưng không rầm rầm như mấy chiếc tàu cánh ngầm từ Sài Gòn đi Vũng Tàu. Tôi có cảm tưởng tàu không chạy bằng máy mà thả trôi theo dòng, lênh đênh như những chiếc thuyền buồm đang qua lại hai bờ Tượng Giang. Con sông rộng hơn khúc sông Hậu ở bến phà Cần Thơ rất nhiều, hai bờ không thấy ai, gió nhẹ, đời êm êm trôi theo dòng nước.
Cô Nhật làm giáo viên tiểu học, cô dự tính ở Miến Điện ba tuần, mới ở Bagan ba ngày trước, đi xe đò lên Mandalay chơi vài ngày bây giờ lại đi tàu thủy về lại Bagan. Cô nói cứ đến hè học trò nghỉ là cô đi nước ngoài chơi. Tôi nịnh:
– Vậy mà tôi cứ tưởng cô là sinh viên chứ.
Cô Nhật phá lên cười hô hô. Cô vừa nhai bánh mì vừa nói:
– Tôi đi dạy học đã mười năm rồi, tin không?
Tất nhiên là tôi giả vờ không tin. Cô tự giới thiệu tên, tôi hỏi tên cô có nghĩa gì. Cô lấy bút viết ngay lên bìa sau cuốn sách đang cầm nơi tay hai chữ Tàu, ma quỷ phò hộ hay sao mà hai chữ cô viết tôi đều đọc được. Tôi kêu lên:
– Đông Mỹ!
Dù phát âm tiếng Hán Việt nhưng cô gái cũng hiểu, cô gật đầu.
– Vậy cô là Beauty of the East rồi, người Đẹp phương Đông!
Cô lại phá lên cười hô hô. Tôi bỗng thấy ái ngại cho mình. Áo quần mấy ngày chưa giặt, không cạo râu, cái ba lô mua ở Sài Gòn Square góc Lê Lợi và Nam Kỳ Khởi Nghĩa rách bươm, ba cái dây kéo thì hai cái hỏng. Còn “người ta” kìa, áo tím quần viền kim tuyến, đồng hồ xịn, máy hình quá xịn, nước da thì trắng như trứng đà điểu mới luộc bóc vỏ. Thiệt là không môn đăng hộ đối chút nào.
Tàu chạy được ba tiếng thì cập vào một làng nhỏ ven sông. Lại người lên kẻ xuống, hàng hóa tấp nập chất lên tàu, dân làng chở hàng ra chợ. Chạy đến hai giờ trưa thì tàu cặp bến năm lần. Lần thứ năm cảnh tượng thật vô cùng hào hứng. Khi tiếng còi tàu hụ lên báo hiệu sắp cặp bờ, thì từ trong xa, bụi bỗng bốc lên mờ mịt dưới trời nắng nóng. Sáu chiếc xe song ngưu (hai con bò kéo) chạy ra hướng tàu, phu khuân vác đã chờ sẵn trên bờ. Khi trên tàu hạ hai tấm ván gác lên bờ, lập tức các thanh niên cửu vạn xông lên, dưới bến thì đàn bà con nít đội thúng bán cơm, chuối, bánh chiên réo mời. Thế rồi phu khuân vác đội các thúng trái cây và nhiều bao bố trên tàu xuống, họ nhanh nhẹn chất lên xe bò, rồi chạy lên tàu làm chuyến khác. Gần đó một chiếc ghe nhỏ cũng áp sát bờ, cứ hai thanh niên một người kéo một người đẩy một con trâu hay con bò lên thuyền. Tấm ván trơn trợt nên con trâu cứ trì lại, nhưng như đã quen thuộc, anh đứng trên bờ cứ đẩy đít trâu, anh trên thuyền thì ra sức ghì mũi. Trâu và người trì lên rị xuống. Nhưng rồi trâu thua, miễn cưỡng leo lên tấm ván nhưng mới bước được vài bước thì té chổng vó xuống nước. Người ta lại xúm vào dựng con trâu lại, trì kéo một hồi cũng dắt được trâu lên thuyền.
Đến một bến khác thì hàng hóa đã xuống gần hết, dân địa phương cũng xuống nhiều nên bong tàu đã có lối đi. Trên bờ, mấy chiếc xe bò đã chất đầy hàng hóa, phu xe “hì hồ” quất roi, mấy chú bò trắng gồng mình chạy vô hướng làng. Bụi tung mù mịt, chỉ thấy đầu người và bóng người lố nhố trong làn bụi mờ giữa trời trưa nóng bức. Cảnh tượng vô cùng sống động hệt như phim giang hồ miền Viễn Tây, chỉ khác các “cowboy” ở đây quấn xà rông, đầu không đội nón rộng vành. Còn phu thì đội hàng trên đầu, chân bước vững chãi trên tấm ván trơn trượt, mỗ hôi nhễ nhại, khuôn mặt sạm đen khắc khổ. Không biết còn nơi nào ở Á châu còn cảnh này không. Ven bờ sông Voi đến đầu thế kỷ 21 vẫn còn cảnh xe bò ra sông chở hàng, phu phen quấn xà rông hoặc ở trần, hàng hóa chỉ là những thực phẩm cơ bản của nông dân như gạo, chuối, muối. Vài mươi năm nữa, khi đất nước hiền hòa này may ra khá hơn, có lẽ sẽ không còn cảnh này. Nhưng bây giờ, như sống trong thời quá vãng xa xăm đầy màu sắc hoang dã và hoang liêu.
Tôi đến quầy bán hàng tính ăn đại cái gì cho xong. Bà đứng trong quầy không chờ hỏi, tự động bê từng nồi thức ăn để dưới bàn đặt trước mặt và giở nắp. Thịt gà, thịt heo, tất cả đều kho và trên mặt có một lớp mỡ vàng dầy. Như các quán ăn trên đất liền, phải lấy muỗng bươi bươi mới biết thịt gì vì không hiểu họ kho kiểu gì mà cả hai loại thịt đều màu đen đen sền sệt. Ăn một đĩa cơm gà kho, uống một chai bia Myanmar. Giá buổi trưa ba đô-la. Theo tiêu chuẩn người địa phương là quá sang trọng. Nhưng ngán nhất là uống cà phê. Nước múc từ dưới sông lên, đun sôi xong vẫn trắng đùng đục, nhưng nghiền quá uống đại, nghe ngóng bụng dạ một hồi lâu vẫn thấy “không có gì”.
Tàu lại cập bến, người lại lên, rồi tàu hụ còi xa bến. Chiều sắp vàng. Nắng loang loáng khắp sông, khói bếp nhà ai trên bờ vươn chầm chậm. Xa xa, từng đàn ngựa trắng thong thả gặm cỏ, nhìn như những chấm trắng lắt lay trên nền cỏ xanh và núi biếc. Đôi khi lẩn trong màu khói xám chiều vài ngọn chùa tháp cũ kỹ chơ vơ trên triền núi. Lâu lâu mới thấy một cụm nhà sàn nhỏ nhắn mái rơm vách nứa. Chiếc tàu cứ nhẹ êm trôi, êm trôi, ở bến đổ cuối cùng trước khi đến Bagan, tôi thấy dòng chữ sơn trắng “Welcome to Pakokku” trên nền màu xanh lơ của một tấm bảng nhỏ hình chữ nhật dựng trên nóc nhà tôn ven bờ sông. Xa xa là những căn nhà tre lợp tôn khuất sau các hàng cây xanh. Đây là một thị trấn nhỏ, buồn buồn, nhưng lừng danh vì thị trấn này là nơi nổ ra cuộc “Cách Mạng Áo Nâu Sòng” hồi tháng Tám và Chín năm 2007, theo cách nói của các nhà báo phương Tây, vì cuộc xuống đường đã do các nhà sư Miến Điện khởi xướng và dẫn đầu.
“Cách Mạng Áo Nâu Sòng” tháng Tám và Chín năm 2007
Nguyên nhân trực tiếp là do chính quyền tăng giá xăng dầu và thực phẩm. Việc tăng giá chỉ là cái cớ, nó như giọt nước làm nổ tung mầm mống bất mãn chính quyền. Cuộc xuống đường khởi sự ở Pakokku, nhanh chóng lan ra khắp Miến Điện. Các nhà sư xuống đường đầu tiên thuộc tự viện Bawdimandine, nơi tu học lớn nhất của thị trấn Pakokku. Chính quyền thẳng tay đàn áp, một nhà sư bị bắn chết, nhiều vị khác bị thương do bị đánh bằng roi điện và dùi cui chống biểu tình.
Các thầy ở Pakokku đòi chính quyền xin lỗi và hạ giá xăng dầu và thực phẩm, nhưng sau đó các thầy đòi thêm hai yêu sách nữa: trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi và đòi chính quyền phải thương thuyết. Cuộc xuống đường vì giá xăng dầu và thực phẩm rẻ sang một hướng khác. Khi các yêu sách trên không được thỏa mãn, cuộc chống đối lan khắp nước, hàng ngàn sư sãi xuống đường. Ban đầu chính quyền nhượng bộ nhưng sau đó quân đội vào cuộc, đóng cửa nhiều tự viện và bắt bớ sư sãi. Trên một ngàn thầy ở tự viện Bawdimandine phải trốn lánh đi nơi khác, các thầy khác thì “cố thu” trong chùa. Một nhà sư cho báo The Irrawaddy biết chính quyền lôi các tù nhân trong nhà tù Mandalay ra khỏi trại, cạo trọc đầu và cho trà trộn trong số sư sãi đang biểu tình để gây xáo trộn. Các nhà sư bèn đưa ra chiến thuật lột mặt nạ sư sãi nằm vùng bằng cách kiểm tra các “ông sư” mới nhập bọn kiến thức về kinh sách, ông nào không biết kinh kệ là bị trục xuất ra khỏi hàng ngũ biểu tình. Trong thời gian này nhiều tự viện vắng bóng tăng chúng, chỉ có chó mèo lang thang trong chính điện.
Tàu cặp bến Pakokku khá lâu để người buôn bán đưa hàng hóa xuống. Chỉ có vài người lên tàu đi Bagan, trong đó có một phụ nữ Miến Điện khoảng trên năm mươi dắt theo hai đứa con trai còn nhỏ. Người đàn bà mặc chiếc áo trắng đã xỉn màu, vai áo, vạt áo trước bụng và sau lưng đã rách nhiều lỗ lớn. Bà bới tóc, mảnh áo rách quấn trong chiếc xà rông màu hồng đậm. Tôi nhìn bà ta đứng dựa vào một cây cột trên bong, nước da đen sậm của bà không biểu lộ một cảm xúc gì trừ hai đôi mắt buồn không tả, nó như một sự chịu đựng hoang dã, khao khát, sợ sệt, ước ao, van xin và lặng lẽ. Hai đứa con trai mặc áo thun ba lỗ rách bươm, chúng dựa vào bà và đôi mắt lấm lét nhìn những người còn lại trên bong, trong đó có một cậu nhỏ người Pháp trạc tuổi chúng đang hồn nhiên chạy nhảy trên bong tàu đã thưa người. Đôi mắt người đàn bà dừng lại nơi tôi, khóe mắt ươn ướt như sắp trào. Bà ta sụp xuống khi hai đứa nhỏ ăn ngấu nghiến mớ lương khô tôi dự định để dành “vượt biên” qua Thái nếu xảy ra chuyện gì, rồi bà hướng ra ngoài sông quỳ lạy thinh không.
Khoảng nửa tiếng sau thì tàu cập bến Bagan. Sáu giờ chiều. Tôi thức từ ba giờ rưỡi sáng, đi trên một đoạn sông không dài nhưng có nhiều kiếp sống khắc khoải.
Cô gái mà tôi tưởng là Nhật lại là người Hàn Quốc. Khi lên bờ, một chàng “củ sâm” chờ sẵn đến đón cô đi.