Sau lần đầu tiên tham gia chương trình 500 lịch sử phỏng vấn của Hội Bảo Tồn Văn Hóa và Lịch Sử Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) tại Houston vào tháng Ba năm 2011, tôi đã cùng với quý anh chị trong Hội đến New Orleans và Denver để tiếp tục thực hiện các cuộc phỏng vấn và gây quỹ. Nơi nào đồng hương mình cũng nhiệt tình hỗ trợ những việc làm quan trọng và nhiều ý nghĩa của quý anh chị trong Hội để nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết là cần phải có những trang sử trung thực và đúng đắn cho cộng đồng người Việt tỵ nạn chúng ta.

Đoàn quay phim Việt Story chụp hình lưu niệm với cộng đồng Việt Nam và Cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại VN. Từ trái: Nhà văn Trùng Dương, ông chủ tịch Chi hội 668 của Hội Vietnam Veteran tại Guam. Triều Giang, hội trưởng hội VAHF, Bà Kim Chi Botcher, Phó chủ tịch hội Liên Hiệp Phụ Nữ Á Châu Thái Bình Dương, ông phó chủ tịch Chi hội 668 Vietnam Veteran. Bà Bé Ba Amsden, chủ tịch Cộng đồng Người Việt tại Guam. Ảnh: Trùng Dương.
Vào tháng Năm năm 2012, Hội đã thực hiện một chuyến đi lịch sử đến Guam và các trại tỵ nạn cũ ở Nam Dương, với mục đích thu nhặt lại những hình ảnh về hành trình đầy máu và nước mắt cũng như dấu tích những bước chân đầu tiên của người Việt tỵ nạn trên những phần đất Tự Do.
Để tìm hiểu về chuyến đi nhiều ý nghĩa này, Diễm Hương đã phỏng vấn chị Hội Trưởng Triều Giang là trưởng phái đoàn trong chuyến đi vừa qua. Xin mời quý độc giả theo dõi.
Diễm Hương (DH): Xin thân ái chào chị Triều Giang?
Thưa chị, xin chị cho biết mục đích của chuyến đi này? Có bao nhiêu thành viên của Hội tham dự chuyến đi?
Triều Giang (TG): Để cung cấp những cảnh sống động cho phim Việt Story, hội VAHF quyết định cho đoàn quay phim Việt Story đi một vòng quá nửa trái đất; từ Austin đi Guam, tính đường chim bay là trên 10,000 cây số. Từ Guam tới quần đảo Nam Dương khoảng 5,000 cây số nữa để ghi lại những dấu vết của hành trình đi tìm tự do của người Việt, ghi nhận những suy nghĩ và cảm xúc của các nhân chứng sống tại chỗ.
Nhóm quay phim gồm Trần Vũ, tác giả của nhiều bộ phim tài liệu, đặc biệt là bộ: “Hành Trình Xuyên Việt”. Anh Vũ được chọn vì kiến thức về thuyền nhân-anh từng là thuyền nhân từ năm 9 tuổi tới 13 tuổi tại Hồng Kong (1991-1994). Anh còn là tác giả của một số phim về người tị nạn, và anh còn có nhiều kinh nghiệm quay phim trong những chuyến đi dài và xa. Anh Trần Vũ hiện đang làm việc toàn thời gian với đài Truyền hình SBTN. Tổng Giám Đốc Trúc Hồ đã có nhã ý hỗ trợ hội bằng cách đồng ý cho anh Trần Vũ cộng tác với Hội trong chuyến đi này. Người thứ hai là nhà văn Trùng Dương, người đã nhiệt thành hỗ trợ và có những đóng góp to lớn cho những công trình của Hội trong nhiều năm qua. Chị đã đi để ghi nhận những sinh hoạt của Hội bằng ống kính máy ảnh của chị, và người cuối cùng là tôi lo việc phỏng vấn.

Đoàn quay chụp hình trước trại tị nạn Galang. Từ trái Triều Giang, Trần Vũ, nhà văn nữ Trùng Dương. Ảnh Internet.
DH: Chuyến đi kéo dài trong bao lâu và đến những địa điểm nào?
TG: Chuyến đi dài gần 3 tuần lễ. Bốn ngày tại đảo Guam và 10 ngày tại Nam Dương. Còn lại là những ngày đi đường. Di chuyển và liên tiếp di chuyển.
DH: Chị đã từng đến Guam chưa? Cảm giác của chị thế nào khi đến đó?
TG: Tôi cùng với phái đoàn của Hội VAHF gồm nữ tài tử Kiều Chinh, một số cơ quan truyền thông và thân hào nhân sĩ cùng thành viên của Hội đến Guam vào cuối tháng 4 năm 2006 để đón nhận những tài liệu về người tị nạn Việt Nam, những người đã được đưa đến Guam trong những ngày dầu sôi lửa bỏng của lịch sử. Người trước, kẻ sau, họ đã sống tại hải đảo này trong hơn 6 tháng từ cuối tháng 4 tới cuối tháng 10 năm 1975. Những tài liệu này đã được Thống đốc Guam, Đại học Guam và các căn cứ quân sự của Hải Quân và Không Quân Hoa Kỳ tặng hội VAHF để đưa vào chương sử của người Việt tị nạn. Chuyến đi đã gây nhiều tiếng vang trong dư luận cộng đồng Việt và Mỹ.
Lần này trở lại sau 6 năm để thu những hình ảnh của hải đảo được coi như là “ngõ vào” (gateway) của người Mỹ gốc Việt cũng ví như đảo Ellis Island, New York, là ngõ vào của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, hay Charleston, South Carolina là ngõ vào của người Mỹ gốc Phi Châu, hay Galveston, Texas là ngõ vào của người Mỹ La Tinh, tôi vẫn còn cảm nhận được những xúc cảm dâng trào khi nhìn thấy những dấu vết của người Việt tị nạn như tại công viên ASAN, nơi đây đã từng đón nhận trên 40,000 người Việt tị nạn. Nay chỉ còn lại hàng chữ thật ngắn ngủi trên tấm bia lưu niệm: “Nơi đây đã từng là chỗ tạm trú của hàng chục ngàn người Việt tỵ nạn năm 1975” bên cạnh những giòng ghi nhận về lịch sử xa xôi hơn nữa của hải đảo mỹ miều này, hàng chữ ghi: “Nơi đây là chỗ đổ bộ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ để giải phóng dân Guam khỏi sự chiếm đóng của quân Nhật năm 1944”. Hoặc 3 bực tam cấp bằng xi măng là di tích duy nhất còn lại do sự có mặt của hàng chục ngàn người tị nạn tại căn cứ không quân Anderson Airforce Base năm 1975. Ngay cả phi trường Orote Point nơi hầu như không còn dấu vết gì về người Việt tị nạn và nay đang được dùng làm bãi tác xạ cho việc huấn luyện các binh sĩ Hoa Kỳ từ khi thời cuộc của vùng Biển Thái Bình Dương bắt đầu có những cơn sóng ngầm như lúc nào cũng có thể nổ tung vì tham vọng xâm chiếm láng giềng của Trung Quốc.

Trần Vũ đang thu hình chiếc tàu nhỏ bé, rách nát, một trong những di tích thuyền nhân còn rải rác tại bờ biển của làng tị nạn Galang cũ. Ảnh: Trùng Dương
DH: Tại Guam dấu tích nào của người tỵ nạn khiến chị vương vấn nhiều nhất?
TG: Những nấm mộ của người Việt tị nạn trong nghĩa trang thuộc Chi hội 668 của hội Vietnam Veteran tại Guam, dấu tích của những người đã bỏ xác tại vùng đất tự do mà họ đã may mắn tới được. Nhưng xúc động đặc biệt hơn cả là tình cảm của Cộng đồng người Việt tại đảo Guam, những người nhận hải đảo này là quê hương thứ hai và họ ở lại đây làm nhân chứng sống cho một cuộc di cư không tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam. Họ là dấu tích sống làm cho tôi vương vấn nhiều nhất. Phải nói rằng chính vì lòng nhiệt thành và sự đóng góp tài chánh rộng rãi của các anh chị: Kim Chi Botcher, một giáo sư dạy Trung học trong căn cứ không quân Anderson hiện đang làm Phó Chủ tịch Hội Phụ Nữ Liên Hiệp Châu Á Thái Bình Dương, anh Lê Trung Hậu, cựu chủ tịch cộng đồng, chị Bé Ba Amsden, đương kim chủ tịch, bác Tính, người mẹ VN đã buôn bán tần tảo trong khu chợ trời để nuôi một đàn con 11 người ăn học. Hôm nay đã có 2 người con làm bác sĩ, một luật sư và những người con khác cũng rất thành công. Để trả lời những người con đang sinh sống ở nhiều thành phố có đông người Việt tại đất liền Hoa Kỳ nhiều lần năn nỉ bà rời đảo Guam đến sinh sống với họ, bà đã nói: “Chắc sẽ có ngày mẹ phải đi, nhưng mẹ muốn ở lại đây cho đến ngày nào mẹ còn có thể vì Guam có tình người thắm thiết, chính nơi đây đã giúp mẹ nuôi sống gia đình đông đảo của chúng ta và nơi đây bà con Việt sống bảo bọc, quây quần, cảnh trí và khí hậu ở đây cũng không mấy khác quê hương VN, điều khác là ở đây có tự do…”. Và còn bao nhiêu những anh chị khác như chị Dung Samiana, chị Phụng xinh đẹp chủ quán Sông Hương, anh Đức Đào, anh Larry Đỗ… và cả những cựu quân nhân chính gốc người Guam được gọi là Chamaro, từng tham chiến tại VN như anh Raymond Bazar và vợ là chị Ly Bazar…; những người đã giúp Viet Story có những thước phim đầy giá trị về “ngõ vào” Hoa Kỳ của sắc dân Người Mỹ Gốc Việt.
DH: Chuyến đến Nam Dương như thế nào?
TG: Cùng mục đích đi tìm dấu chân phiêu bạt vì tự do của người Việt và để làm sáng tỏ những tài liệu bằng chữ nghĩa và những con số khô khan về sự hy sinh của trên nửa triệu thuyền nhân đi tìm tự do trong gần 2 thập niên từ 1976 tới 1995 trước dư luận thế giới qua phim Việt Story, hội VAHF đã liên lạc với Văn khố Thuyền Nhân tại Úc do ông Đông Trần làm chủ tịch để tháp tùng theo chuyến đi “Về Bến Tự Do 10” của tổ chức này hầu có thể quay những thước phim sống động về những nơi chốn thuyền nhân đã đi qua, đã sống những ngày chờ đợi mòn mỏi và nhiều người phải gửi tấm thân vĩnh viễn nơi đây trước khi được sống tại một vùng đất tự do như họ hằng mơ ước.
Phái đoàn VAHF với Trần Vũ đã ghi vào ống kính những hình ảnh của nhiều đảo hoặc có người Nam Dương sinh sống, hoặc chỉ là đảo hoang trong hơn 250 đảo của quần đảo Anambas, nằm tại phía bắc của Nam Dương, một quốc gia bao gồm trên 2,800 đảo lớn, nhỏ, nhiều nơi chỉ cách Singapore có chưa đầy một giờ đồng hồ tàu chạy, nhưng đời sống khác biệt như ngày và đêm giữa hai xã hội văn minh và chưa phát triển. Trên những hòn đảo đầy những dấu tích của hàng trăm ngàn thuyền nhân; những chiếc thuyền nhỏ bé đượm màu thời gian còn nằm nghiêng ngả rải rác quanh đảo, cho đến những căn nhà xiêu vẹo, rách nát từng làm trường học, nhà thương, văn phòng làm việc, một nhà máy phát điện, cho đến nơi thờ phượng như nhà thờ, ngôi chùa, và cả một nhà tù. Dấu vết của những người chết vì hai chữ tự do còn in đậm nét qua hàng ngàn ngôi mộ với những mộ bia hoang phế màu thời gian, có nhiều bia không còn có thể đọc được tên người quá cố, trên những hải đảo xa xôi như: Letung, KuKu, Air Raya,Tarempa… hoặc trên 500 ngôi mộ tại làng Galang, thuộc cực Nam của đảo Batam, trong quần đảo Riau mà chính quyền Nam Dương đã và đang có chương trình trùng tu để làm di tích cho một viện bảo tàng với hy vọng thu hút khách du lịch phần lớn trước đây là những người lặn (scuba divers), nay thêm vào là những thuyền nhân đã từng đến và sống một phần đời ở đây.

Tượng đài thuyền nhân Galang. Ảnh Trùng Dương.
Bằng những tiếng Anh bập bẹ, những tiếng Việt đơn sơ họ đã kể cho chúng tôi về những cái chết đau thương của thuyền nhân: “chết, chết nhiều lắm!” với những ánh mắt thương cảm, dù chuyện đã xảy ra hơn 30 năm. Chính lòng nhân từ của những người dân hiền lành, chất phác vùng Đông Nam Á như Nam Dương, Thái Lan,Mã Lai…đã cứu sống hàng trăm ngàn thuyền nhân, nhưng cũng đã có những kẻ vô lương tâm lợi dụng sự khó khăn và thế yếu của thuyền nhân lúc bấy giờ để cướp bóc, trấn lột, hiếp đáp và giết chóc thẳng tay khiến nhiều thuyền nhân chết thảm hoặc còn sống cũng mang những quá khứ kinh hoàng suốt đời họ. Nhất là khi tình thương thế giới bắt đầu mỏi mệt và quay lưng với thuyền nhân VN, thì bao cảnh tang thương, nhục nhằn đã đến với những thuyền nhân tuyệt vọng.
Trừ phái đoàn 3 người của VAHF, 2 người trong Ban tổ chức của Văn Khố Thuyền Nhân là ông Đông Trần và ông Nguyễn Văn Sơn, và 7 người khách còn lại, tâm tư họ đã chất đầy những kỷ niệm vui buồn, thống khổ, nhục nhằn từ chốn này. Ba người trong số họ đã tham dự lần này là lần thứ hai: Chị Nguyễn thị Yến Hương đến từ Pháp, năm ngoái chị đã cùng phu quân đến đây và Mã Lai để tìm mộ người em trai của chồng chết trên chuyến tàu chở 121 người và được chôn trong một ngôi mộ tập thể tại Mã Lai. Trong buổi phỏng vấn, chị Yến Hương đã nghẹn ngào trong nước mắt: “Em tin rằng chú ấy đã chỉ đường cho em dù em lập gia đình với nhà em sau này và em chưa hề gặp mặt chú”.
Anh Nguyễn Hùng Phi, cựu sĩ quan Võ bị Đà Lạt cùng đi với người em trai là nhà khoa học Tiến sĩ Nguyễn Hùng Vũ từ Úc trở lại Nam Dương lần thứ hai. Anh Hùng cho biết anh đã vượt biên 21 lần và có rất nhiều kỷ niệm với những hải đảo Nam Dương này.
Với nhà khoa học trẻ Vũ thì anh không thể quên nơi này, nơi anh đã sống tuổi thiếu niên. Đáng ngạc nhiên khi nghe một người bỏ biết bao thời gian để học trong các nhà trường danh tiếng để đạt được bằng Tiến sĩ lại phát biểu: “Dù chỉ có mấy năm, nhưng phải nói, nơi đây là nơi tôi được học hỏi nhiều nhất. Học những điều giúp tôi xây dựng cho mình nhân cách hôm nay..”
Bác Giáo Trần đến từ Canada, 78 tuổi cũng tâm sự: “ Bà nhà tôi đã mất cả chục năm nay. Tôi về hưu và đi du lịch khắp nơi. Tôi muốn trở lại chốn này để nhận thức cho đúng nơi mình đã sống những ngày tháng quan trọng của cuộc đời vì trước đây mình quá bận rộn để thăm lại..”
Và còn biết bao tâm tình của anh Chiêu Nguyễn, anh Tèo, người yêu cầu gọi anh bằng tên cúng cơm vì anh đến từ VN. Anh là một trong nhiều chục ngàn thuyền nhân VN bị trả về trong những năm 1994-1995, khi tình thương thế giới bị mỏi mệt vì cảnh CSVN đẩy hàng triệu dân của họ đi tìm sự sống trong cái chết bằng những chánh sách trả thù khắc nghiệt của họ. Hành trình tìm tự do đầy máu và nước mắt của người Việt qua ống kính của Trần Vũ ghi nhận cho phim Viet Story, từ đó đã không còn là những số liệu khô khan, trừu tượng mà là một sự thật hiển nhiên, sống động như đang diễn ra trước mắt tôi và sẽ đến với khán giả khi phim hoàn tất.
Nhân dịp này, xin được chân thành cám ơn Văn Khố Thuyền Nhân, ông Đông Trần và quý anh chị trong đoàn “Về Bến Tự Do 10” đã góp phần trong những thước phim nói về thảm cảnh của thuyền nhân Việt Nam trong phim Việt Story.

Đoàn quay phim và các thân hữu tại phi trường cũ Orote Point, thuộc đảo Guam đang thu những thước phim ở hai địa điểm đã từng là nơi tạm trú cho hàng chục ngàn người Việt tị nạn, cho phim tài liệu Viet Story do hội VAHF thực hiện với sự hỗ trợ của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Ảnh Trùng Dương.

Ống kính của Trần Vũ đang ghi nhận những chia sẻ những ký ức về người Việt tị nạn tại Guam của cựu chiến binh Raymond Bazar, tại công viên ASAN.


Một cảnh quay những nấm mộ người Việt tị nạn tại Guam. Ảnh: Trùng Dương

Nghĩa trang trong làng tị nạn Galang, nơi là mồ chôn của trên 500 thuyền nhân VN và giấc mơ được sống tự do của họ. Thuyền nhân sống tại Galang thường gọi đùa là Galang 3. Vì đã có khu Galang 1 lo việc thủ tục giấy tờ. Khu Galang 2 là khu nhà ở và sinh hoạt. Ảnh: Trùng Dương

Trần Vũ và ống kính tại một góc của Nghĩa trang Galang. Ảnh: Trùng Dương.


PDH