Ngoài hai anh em Chính và Trực, hai anh em tôi không biết ai hết trong căn nhà cổ 6 phòng ngủ tọa lạc tại downtown San Jose. Thật ra thì phần ai nấy lo, có gặp nhau ngoài hành lang hay trong nhà bếp thì cũng nói chuyện qua loa vài câu mà thôi. Anh Nam còn nói chuyện nhiều với hai người này vì họ thấy anh lớn, còn tôi đang học trung học nên họ cho là con nít, không thèm chơi. Một hôm tôi nghe lóm được mẩu đối thoại giữa anh Chính và anh Nam. Anh Chính cho biết là anh có một người bạn quen được một bà Việt Nam tuổi mới ngoài ba mươi, dáng người thon thả, nhan sắc mặn mà, và rất chịu chơi. Bà này tên Hồng, có chồng còn đang kẹt bên Việt Nam, cho nên có thể coi là đang độc thân tại chỗ. Ông bạn của anh Chính lâu lâu dẫn bà Hồng đến đây cho đám thanh niên Việt Nam… vui vẻ miễn phí. Anh Chính nói chính bà Hồng nói là bà làm vậy là vì bà “tội nghiệp” mấy anh thanh niên độc thân Việt Nam qua Mỹ kẹt không có chỗ xả. Nói một cách khác, bà Hồng tự cho là mình làm “việc nghĩa” để “giúp” đồng hương, và anh Chính nói thêm:
“Chưa biết ai giúp ai à nghen!”
Nhưng nói gì thì nói, mỡ đưa đến miệng mèo, phải nói là một đám mèo trong đó có cả anh Chính, thì dại gì không đớp. Anh Chính cho biết mỗi lần bà Hồng đến đây là có cả đám thanh niên gần chục mạng thay phiên nhau xa luân chiến. Đặc biệt là bà Hồng không thích cái trò hội đồng, bà chỉ cho phép mỗi người lên giường một lúc, cho nên suốt đêm có cả đám thanh niên đứng ngoài cửa phòng ngủ của hai anh em Chính Trực chờ đến phiên mình. Anh Chính còn kể thêm có khi xong một tua, họ còn bày bia và đồ nhắm ra, xong cả đám thanh niên và bà Hồng khỏa thân ngồi dưới đất ăn nhậu trong khi chờ đợi hồi sức để tiếp tục làm tiếp. Chỉ nghe kể đến đó làm tôi tưởng tượng ra cái cảnh ăn lông ở lỗ từ thời tiền sử.
Anh Chính kể có một lần bà Hồng từ chối nhất định không cho thằng Hoàng nhập cuộc. Thằng Hoàng này thì tôi biết, nó chỉ bằng tuổi tôi thôi mà nghe đâu đã biết ăn chơi từ hồi vắt mũi chưa sạch. Bà Hồng nói là thằng này con nít, bà chỉ chấp nhận những cậu đủ tuổi uống bia, hay ít nhất phải hai mươi tuổi. Bất kể thằng Hoàng năn nỉ ỉ ôi cả đêm hôm đó, bà Hồng nhất định cự tuyệt. Bà còn ra lệnh cho bạn anh Chính phải đuổi thằng nhỏ này đi, không thôi bà nghỉ chơi. Tôi biết là anh Chính kể chuyện này cho anh Nam nghe cũng như muốn gián tiếp nói là thằng em của anh còn tuổi trung học, đừng có nghĩ đến trò người lớn. Rồi anh Chính nói riêng với ông anh tôi:
“Hôm nào có độ, tôi sẽ gõ cửa rủ ông qua nhập cuộc!”

Anh Nam chỉ mỉm cười, không nhận lời và cũng không từ chối. Một điều tôi biết rõ ràng là ông anh tôi không còn trẻ dại và lạ lẫm gì với mấy cái trò này. Ở Việt Nam đúng ra anh đã tốt nghiệp đại học nông nghiệp Minh Đức, anh đang làm luận án tốt nghiệp thì bỏ ngang, rủ bạn bè cùng xuống Bạc Liêu tìm đường vượt biên. Nhà tôi hồi trước ở Vũng Tàu, anh Nam đi học ở Sài Gòn và mướn phòng trọ sống một mình, không ai kiểm soát thì muốn làm gì chả được. Còn phần tôi thì thú thật tôi còn con nít chay, ham học hơn ham chơi, mấy cái trò người lớn này lúc đó tôi chưa dám nghĩ đến.
Một tối Thứ Sáu, trong căn phòng nhỏ, anh Nam ngồi ôm đàn guitar và móc mấy tấu khúc cổ điển, còn tôi nằm dài đọc sách thì có tiếng gõ cửa. Không đợi tiếng đáp lại, anh Chính xoay nắm cửa và ló đầu vào, nhìn ông anh tôi, anh Chính nói:
“Ê Nam, tối nay có độ, lát nữa qua phòng tui.”
Anh Nam nhìn anh Chính và cười khẩy:
“Thôi, tôi mệt!”
“Mệt gì cha! Qua gặp chị Hồng sẽ hết mệt ngay.”
Nói vậy mà ông anh tôi nhất định không rời khỏi phòng ngủ của hai anh em tối hôm đó. Anh ngồi nhậu với tôi vài lon bia xong đắp chăn đi ngủ sớm. Lúc đó tôi tự hỏi có phải vì sự hiện diện của tôi mà anh Nam phải nhịn? Tôi cứ tưởng là anh đã đóng kịch vì không muốn thằng em coi thường. Sau này anh kể cho tôi nghe là ở Việt Nam anh đã biết chuyện xác thịt rất sớm, ngay hồi học ở Sài Gòn, nhưng những lúc đó tinh thần anh thoải mái. Giờ đây thân phận tị nạn lưu vong và cuộc sống mưu sinh còn đang rối bời anh đâu còn tâm trí và hứng thú để làm chuyện ấy.
Tôi nhớ lại hồi sáng tôi gặp anh Trực trong nhà bếp, anh đang đổ trứng gà ốp-la ăn sáng. Thấy lòng vàng và lòng trắng còn sống quá, tôi hỏi:
“Sao anh không chiên kỹ, sống quá ăn ớn thấy mồ!”
“Ăn càng sống càng bổ!”
Nói xong anh Trực cười thật đểu. Giờ thì tôi mới biết là tại sao anh ta nói câu đó. Tối hôm đó hai anh em tôi đóng kín cửa và đi ngủ sớm. Nửa đêm tôi mắc tiểu nên mở cửa đi kiếm nhà vệ sinh. Phòng ngủ của hai anh Chính, Trực nằm đối diện với phòng ngủ của hai anh em tôi, chéo về hướng nhà tắm. Tôi vừa mở cửa thì chứng kiến một cảnh tượng thật trớ trêu. Nhờ ánh đèn vàng lờ mờ từ ngoài đường hắt lên qua cửa sổ nhà bếp mà tôi thấy rõ một đám thanh niên khoảng sáu mạng trần như nhộng đang đứng xếp dọc hành lang, trước cửa phòng ngủ của anh Chính. Thấy tôi từ phòng mình đi ra, có gã ngoảnh mặt làm ngơ nhưng cũng có gã quay qua gật đầu chào có lệ. Lúc tôi đi ngang qua phòng ngủ của anh Chính, cánh cửa khép kín nhưng tôi nghe rõ tiếng giường kêu kẽo kẹt và tiếng thở mạnh và nhanh. Tôi lắc đầu xua đuổi những hình ảnh bậy bạ đang hiện ra từ trí tưởng tượng.
Sau này, khi dọn ra khỏi căn phòng trong căn nhà cổ ở downtown San Jose, chuyện người đàn bà dâm đảng đó cứ ám ảnh tôi một thời gian. Cái cảnh một người đàn bà với một đám đàn ông, hay cũng có thể nói ngược lại là một đám đàn ông luân phiên với một người đàn bà bắt buộc phải làm chúng ta suy nghĩ đến những người phụ nữ Việt Nam bị bọn hải tặc Thái Lan hãm hiếp trên biển Đông. Cũng như hàng vạn chiếc ghe khác trong hành trình tìm tự do trên biển Đông, chuyến vượt biển của tôi cũng không tránh được tầm nhắm của bọn hải tặc Thái Lan.
Từ sau cái đêm thoát chết chỉ vì định đi ăn trộm nước và rơi xuống biển đó tôi tự nhiên sợ đi ra phía sau của chiếc ghe. Tôi chỉ ngồi lì phía mũi ghe, khát nước cách mấy cũng ráng chịu, khẩu phần mỗi người một nắp can xăng không đủ dập tắt cơn khát, nên mọi người trên ghe bắt đầu cáu gắt lẫn nhau. Sang đến ngày thứ mười hai, biển trở nên yên tĩnh lạ thường, mặt nước biển phẳng lặng như mặt hồ. Bầu trời thì xanh biếc, không một áng mây. Đột nhiên, từ xa một chấm nhỏ hiện ra và lớn dần. Từ trên nóc ghe, gã tài công tuyên bố là có tàu đánh cá mang cờ Thái Lan và rất có thể đây là tàu của bọn cướp biển. Thay vì đổi hướng khác, gã tài công cho tàu lao thẳng vào hướng chiếc tàu đánh cá đi ngược chiều. Đồng thời tôi để ý thấy chủ ghe leo xuống khoang máy, khệ nệ xách lên mấy bao tải mà Sáu chuyển xuống tàu hôm rời cá nhỏ ở bờ biển Vũng Tàu.
Từ xa tôi thấy một đám người vẻ mặt hung hãn, trên tay cầm dao búa và nhảy tưng tưng. Khoảng cách ít nhất cũng là vài trăm mét và hình dáng của đám người này nhìn thấy chỉ bằng mấy đầu ngón tay. Bên đây gã chủ ghe nạp đạn vào khẩu súng phóng lựu M79. Gã nhắm vào chiếc ghe Thái Lan và bóp cò. Khẩu súng giật ngược, đẩy gã chủ ghe ra đằng sau khoảng một mét. Quả lựu đạn bắn trật mục tiêu, rơi tõm xuống biển cách xa chiếc ghe hải tặc khoảng 5 thước. Một tiếng nổ lớn vang lên kèm theo một cột nước khổng lồ xẹt lên theo chiều thẳng đứng. Gã chủ ghe buột miệng chửi thề:
“ĐM! hụt rồi!”
Nhìn cái tướng gã cầm súng lúc nãy đủ biết là gã không phải là gốc lính và cũng có thể đây là lần đầu tiên gã sử dụng vũ khí. Lúc nãy khi bóp cò gã đã không biết dạng chân trước chân sau để lấy thế nên bị súng giật văng ra đằng sau. Từ trên nóc gã tài công nhảy xuống, cầm khẩu AK-47 nhắm về hướng chiếc ghe Thái Lan và khạc đạn liên thanh, “tạch tạch tạch …”. Tuy nhiên vì khoảng cách khá xa cho nên những viên đạn bay lên trời hay rớt tõm xuống biển. Phía bên kia đối phương đã hoàn hồn, bọn chúng chui thật nhanh vô trong boong tàu, quay mũi tàu và xả hết tốc lực để chạy trốn. Gã chủ ghe ra lệnh:
“Không để tụi nó thoát! Phải bắn cho chìm, cái bọn chó đẻ!”
Sau này tôi mới biết là chủ ghe có chị, em và các người thân trong gia đình đi vượt biên trước gặp tàu hải tặc và bị bọn chúng làm nhục. Gã rút kinh nghiệm nên phòng thủ đầy đủ đồ nghề để trị bọn này. Tuy nhiên những hành động gã đang làm nãy giờ có vẻ hơi đi xa chuyện phòng thủ cần thiết. Gã tài công nhảy lên nóc trở lại, xả hết tốc lực đuổi theo. Phía dưới khoang chứa cá, tiếng đọc kinh niệm Phật, tiếng kinh Kính Mừng lại vang lên: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen!” Có nhiều bà già từ dưới khoang đi lên, tiến về phía gã tài công và chủ ghe năn nỉ họ đừng đuổi theo để bắn giết nữa.
“Các ông làm ơn nghĩ đến đàn bà và con nít trên ghe. Xin các ông làm ơn làm phước để đức cho con cháu.”
Nói xong mấy bà này quỳ xuống, chắp hai tay và vái lạy hai gã đàn ông chỉ đáng tuổi con cháu mình. Có lẽ hành động đó đánh thức lương tâm đồng loại của gã chủ ghe. Gã ngoắt tài công và ra lệnh:
“Thôi, tha cho bọn chó đẻ!”.
Chiếc ghe giảm tốc độ, chiếc tàu đánh cá của bọn cướp biển xa dần và mất hút. Biển yên, gió lặng trở lại. Chiếc ghe bé nhỏ chứa 51 thuyền nhân lại tiếp tục cuộc hải hành đơn độc.
(Xin đón đọc Tự Truyện kế tiếp)