Anh Hai ơi,
Ở dưới này, các vùng như Mặc Cần Dưng, Kinh Xáng Bốn Tổng và các làng quê khác vào mùa nước ngập này còn có thêm xuồng ghe cắt cỏ bò tấp nập trên các kinh rạch nữa, vui lắm, mà nhất là con rạch Mặc Cần Dưng chạy vô Cầu Số Năm, Tri Tôn xuồng ghe cắt cỏ đi mát nước vì miệt này hồi đó đất lâm còn nhiều nên cỏ lác còn nhiều lắm. Thời xưa ấy, nhà nào cũng nuôi bò ít nhất là một đôi, có người có tới ba bốn đôi bò để dùng vào việc cày bừa nhe anh Hai. Chính vì vậy mà mùa nước lên nhà nào cũng phải cất chuồng bò với sàn chuồng phải thiệt cao cho chuồng khỏi bị ngập nước. Và người ta phải dùng xuồng ghe cắt cỏ cho bò ăn vào mùa này. Có người tự cắt cỏ lấy, có người cắt cỏ hổng xuể, phải muớn người cắt cỏ mướn; do vậy ở đây có thêm nghề “cắt cỏ mùa”, tức là người ta chỉ mướn mình cắt cỏ cho bò hết mùa nước lên thì thôi, các mùa khác mình đi tìm công việc khác như cày bừa, cắt gặt để làm.

Nguồn Flickr.com yunguyen666
Các loại cỏ mùa nước lên này bò thích nhứt là cỏ ống, cỏ mồm lông, cỏ mồm mỡ, và lúa cua kẹp bị nổi. Hồi đời xưa vùng quê mình làm toàn lúa mùa nên khi nước ngập linh binh, lúa vọt theo nước có cọng dài tới bốn năm thước và cua thì bám vào gốc lúa để sống, nên rảnh rỗi hổng biết làm gì chúng mới quơ quơ càng kẹp vô gốc lúa chơi cho vui; chúng cứ kẹp hoài năm ba lần như vậy nên cây lúa bị đứt gốc và nổi phình lên mặt nước. Cả cánh đồng lúa mùa bạt ngàn mấy chục ngàn công ấy lúa bị cua kẹp nổi biết làm gì cho hết nên dân cắt cỏ bò mới vớt lúa cua kẹp này về cho bò ăn thay cho cỏ. Cứ tùy theo ghe lớn, ghe nhỏ hoặc xuồng lớn, xuồng nhỏ mà mỗi chuyến đi cắt cỏ xa như vậy phải đi vài ba ngày mới cỏ đủ cho bò ăn ít nhất cũng từ một tuần tới mười ngày đổ lên. Nếu cắt cỏ nhiều mà để lâu cỏ bị úa và bò ăn hổng ngon, còn có cỏ mới bò ăn ngon miệng lắm.
Ngoài ra, riêng về loài trâu ở đây mấy cậu tui hồi đó nuôi trâu nhiều lắm, có cậu vì ruộng trăm, ruộng thiên nên có cậu sắm tới vài chục con trâu là thường; đó là chưa kể trâu cái đẻ trâu con nên đàn trâu càng ngày càng đông. Chắc anh Hai sẽ hỏi tui trâu nhiều quá khi mùa nước ngập thì chuồng nào để trâu ở đâu cho đủ. Thưa anh Hai, loài trâu thì không ở trên những chuồng lót ván như bò được vì chúng sừng dài, thân lớn và hay cọ quẹt dữ lắm. Ngoài ra, chúng lại thích nằm nước nhiều hơn là ở trên khô. Tuy nhiên, dù trâu nằm nước, nằm hầm thì nằm nhưng trâu cũng cần chỗ khô ráo để nghỉ chân nữa nhe anh Hai. Thành ra, vào mùa này, miệt ruộng tụi tui dưới này mới có mùa lùa trâu lên các vùng cao ráo như chưn núi Ba Thê hoặc vô Tri Tôn, Xà Tón để tìm chỗ cao cho trâu ở và việc dời trâu tránh mùa nước ngập như vậy, hồi đời xưa ông bà gọi là “lùa trâu đi cầm” hoặc gọi tắt là “cầm trâu”. Chữ “cầm” ở đây hổng phải là cầm cố gì mà có ý là đem trâu tới chỗ khô ráo rồi mình ở đó cất trại, cất chòi và có người ở lại để giữ nó, coi chừng chăm sóc cho nó chứ hông thôi chúng lại lội lung tung phá tán ruộng nương người khác. Sau này tui mới nghe nói vùng Cà Mau, Miệt Thứ ở Rạch Giá có chữ “len trâu” là để chỉ việc dời trâu từ nơi này qua nơi khác để tránh nước. Chắc đây là một phương ngữ miệt đó nên tui hổng rành và từ ngữ này hổng thông dụng ở vùng mình, thành ra, thiệt hư gì về mấy chữ “len trâu” này tui hổng biết chữ nào trúng nhe anh Hai.
Hồi đó, mấy cậu tui hay mướn một người thanh niên trai tráng giữ trâu, rồi cất trại cho người ta ở với gạo thóc mắm muối nồi niêu củi đuốc nấu cơm ăn; còn cá mú thì hồi xưa cá tôm nhiều lắm, nên ở nhà sắm câu lưới cho mấy người này giăng lưới giăng câu bắt cá ăn, nhiều lúc ăn hổng hết còn làm khô để dành nữa nhe anh Hai.

Đàn trâu mùa nước nổi – canhdongtruyengiao.net
Ngoài ra, sẵn dịp kể anh Hai nghe chơi về ba cái vụ bắt cóc chuộc tiền nhơn mùa cầm trâu này nữa. Số là vào những năm ly loạn 1948-1949-1950, thừa cơ hội mùa nước ngập lêu bêu, bọn thảo khấu dùng xuồng di chuyển trên đồng dễ dàng nên chúng biết chủ của mấy bầy trâu đem cầm trên miệt Ba Thê, Tri Tôn, Bảy Núi nhà ở đâu ráo trọi. Thế là một buổi mưa giông tối trời, đang giữa đêm, chúng cặp xuồng vào sát mé hè cậu Hai tui và dộng cửa rầm rầm kêu mở cửa. Khi nhà sợ quá phải mở cửa, chúng súng ống đầy mình và nhào vô trói thúc ké cậu Hai tui bằng dây bố và dẫn xuống xuồng chở đi mất biệt. Vài ngày sau, có người đem giấy tới ra lịnh người nhà phải đem tiền chuộc, nếu không có tiền chuộc và giao tiền tại một địa điểm nào đó ở giữa đồng nước ngập lêu bêu thì chúng sẽ giết cậu tui. Ở nhà lo sợ quá, phải đem tiền đi chuộc và cậu tui mới được dìa. Cái mửng lâu lâu bắt cóc chuộc tiền này xảy ra hà rầm vào thời buổi loạn lạc ấy. Nên mùa nước lên vùng Mặc Cần Dưng và các vùng lân cận còn là mùa bắt cóc chuộc tiền mấy người khá giả trong vùng của bọn thảo khấu nữa nhe anh Hai. Nhưng rồi, như anh Hai thấy, ở trên đời này bọn gian ác đó có mấy đời còn, và bọn chúng ăn những đồng tiền mồ hôi nước mắt của cậu tui rồi cũng thành đất thành bùn ráo trọi, được những gì mà tiếng ác vẫn còn hoài tới muôn đời! Phải vậy hông, thưa anh Hai? Thành ra, kể sơ sơ vài nét về mùa cắt cỏ, mùa lùa trâu đi cầm vào mùa nước ngập, mùa bắt cóc chuộc tiền để anh Hai nghe chơi cái thời làm ruộng lúa mùa đời xưa hầu san sẻ cùng anh một chút tình quê vậy!
Rồi anh Hai lại nhắc: “Rồi nhìn lại hình ảnh nước ngập trường Thủ Khoa Nghĩa, tôi chạnh nhớ tới cây cột cờ, nơi mà cứ mỗi buổi sáng Thứ Hai trong tuần, bao nhiêu cặp mắt hướng về đó như là một tụ điểm của hồn thiêng sông núi trong buổi lễ chào cờ, tôi chạnh nhớ đến quý thầy cô bây giờ đã khuất, chạnh nhớ đến bạn bè kẻ còn người mất.”

Trường xưa bạn cũ – Nguồn ngothatsons.vnweblogs.com
Đọc đoạn văn trên anh Hai tả, tui mới thấy tấm lòng của anh Hai nhớ nước, nhớ trường, nhớ thầy cũ, nhớ bạn xưa biết lấy gì chứa cho hết những nỗi niềm chan chứa trong lòng của anh luôn tha thiết đậm đà. Tui rất kính phục anh Hai ở chỗ là dù nay anh sống ở đâu đi chăng nữa nhưng tâm hồn anh vẫn hoài vọng về chốn cũ bất tận.
Thưa anh Hai,
Sắp nhỏ nhà tui nay mai sắp cắt lúa hè-thu rồi anh Hai ơi. Lúa ngày nay mấy cháu làm mùa nào lúa hột cũng bộn nhưng trong nhà lúa hổng nhiều như hồi xưa vì lúa cắt gặt xong, suốt ra hột rồi, dù lúa còn ướt, còn xanh là chúng cân bán liền hà chứ hổng có chờ phơi khô rồi xe trâu kéo lúa về ví bồ để dành như hồi xưa nữa nên có lúa coi như hổng có là vậy. Ngoài ra, tiền bán lúa hồi xưa là tiền có được và góp nhặt để dành được hầu mua sắm trâu bò, cưới vợ gã chồng cho con cháu hoặc mua cây ván tu bổ nhà cửa; còn ngày nay tiền bán lúa còn ướt ấy đâu có đứa nào giữ lâu trong túi đâu anh Hai. Sắp nhỏ vừa cầm tiền bạc triệu đó chưa nóng bàn tay thì phải chạy ra các vựa bán thuốc sâu rầy trả tiền mua các loại thuốc sâu, các loại phân bón còn thiếu chịu hồi mùa rồi, nên thấy lúa, thấy tiền mà hổng phải lúa, hổng phải tiền của mình anh Hai ơi! Cho nên, làm lúa riết, có khi tới ba bốn mùa, nên nước Tháng Bảy âm lịch rồi mà rạch vẫn còn ròng sát lòng rạch là vậy!
Thế cho nên, đọc báo chí tui thấy nói miệt ruộng bên Đồng Tháp có nơi người ta đổi lúa, đổi cá để “cắt lúa nằm”, tui nghi quá anh Hai. Tui hổng rành bên Đồng Tháp nhưng miệt Kinh Xáng Bốn Tổng của tui, như tui có thưa với anh Hai ở đoạn thơ trên là lúa suốt ra hột còn tươi xanh, chưa kịp phơi cho khô ráo là bán liền để trả nợ mua thuốc sâu, mua phân bón còn thiếu chịu nên lúa đâu có dư mà đổi. Còn cá mú một phần đồng bị ngăn bờ ngăn đập làm ruộng tới mùa nước ngập mà đồng cứ còn khô rang thì làm gì có cá mà đổi ba cái vụ “cắt lúa nằm”; đó là tui chưa kể cá bị rà điện, bị các thứ thuốc sâu rầy tiêu diệt chết hết rồi, cá rô cam tích hổng có đủ cho đàn con nheo nhóc ăn hằng bữa lấy gì có cá lóc cá trê dư mà để đổi lấy ba cái đồ quỷ dịch ấy anh Hai. Vả lại, còn mấy đứa con gái nhà quê của mình nữa, trong đó có con cháu của anh và con cháu của tụi tui, đâu phải con cái nhà nào cũng có mầm ham tiền hư hỏng hết đâu mà hễ làm gì tầm bậy tầm bạ là cứ nói “con gái miền tây”, “con gái miền tây” mình ráo trọi thì có tức hông anh Hai.
Đành rằng chuyện hư hèn như bán trôn nuôi miệng mà các ông nhà báo kể ít nhiều gì thời nào cũng có, hổng nhiều thì ít, nhưng “mía sâu có lóng, nhà dột có nơi”(2), chứ quơ đũa cả đám “gái miền Tây, gái miền Tây” là cũng hổng được công bằng cho lắm, nếu không muốn nói là các ngài ký giả này nhằm câu độc giả nên bôi bác và bêu rếu đàn bà con gái quê miền Tây tụi tui hơi nhiều, thưa mấy ông nhà báo! Nên tui đề nghị xin các ngài ký giả nếu còn chút lương tâm, các ngài nên nghĩ lại và nên chọn câu, chọn chữ mà dùng sao cho thiệt là chính xác giùm mỗi khi các ngài muốn đề cập tới sinh hoạt của dân làng nơi các làng quê để cho bà con các làng quê miền Tây của tụi tui được nhờ vậy!
Cuối thơ, một lần nữa, vợ chồng tui cầu chúc anh chị vạn sự cát tường.
Nay kính thơ,

Gặt lúa mùa nước nổi tại Đồng Tháp Mười – Ảnh Thảo Nguyên
Cước chú:
2/ Nguyên văn câu tục ngữ này: “Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi”, nhưng dân quê bình dân miền Tây Nam Phần ít ai nói “đốt mía” mà thường nói “lóng mía, mắt mía; lóng tre, mắt tre; lóng tay”, nên ở trường hợp bàn về tính chính xác của các tên gọi như “mùa nước lên” hay “mùa nước ngập” thay vì “mùa nước nổi”, như “lùa trâu đi cầm” thay vì miệt dưới hay nói “len trâu”… như trong lá thơ này, nên người viết thử dùng chữ “lóng” thay cho chữ “đốt”, cũng cùng một loại từ: danh từ, cũng cùng một nghĩa: “từng đoạn có mắt ở hai đầu”, như một cách nói lại cho chính xác hơn, hợp lý hơn với cách nói của dân quê miền Tây thường nói, ngoài ra người viết không có ý sửa lại tục ngữ.