Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2000, George W. Bush (Cộng Hòa) chỉ giành được 47.87% phiếu phổ thông cả nước so với Al Gore (Dân Chủ) chiếm được 48.38%. Vậy mà Al Gore phải nhường bước cho ông Bush. Hơn một thế kỷ trước tình trạng tương tự cũng xảy ra trong cuộc bầu cử năm 1888: Benjamin Harrison trở thành tổng thống Mỹ trong khi thua đối thủ là Grover Cleveland về số phiếu phổ thông. Tại sao có những trường hợp “lắt léo” như vậy?
Chúng ta dành trang báo này để tìm hiểu sơ lược về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.
– Trên thực tế, cử tri (voter) Mỹ không trực tiếp bầu chọn tổng thống. Lá phiếu của họ là phiếu phổ thông và để chọn ra đại diện cử tri (hay còn gọi là đại cử tri – elector), tức những người đã tuyên bố rõ ủng hộ ứng viên này hay ứng viên kia.
– Mỗi tiểu bang có số lượng đại cử tri dựa trên dân số: càng đông dân thì càng nhiều đại cử tri. Các đại cử tri hợp thành cử tri đoàn (Electoral College).
– Tổng cộng nước Mỹ có 538 đại cử tri (bằng tổng số người trong Quốc Hội (435 dân biểu + 100 nghị sĩ + 3 đại cử tri dành cho đặc khu Washington D.C.)
– Tại hầu hết các tiểu bang (trừ Maine và Nebraska), các đại cử tri sẽ bỏ phiếu theo thể thức “được ăn cả ngã về không”. Nghĩa là nếu ứng viên nào giành được đa số phiếu của cử tri phổ thông thì sẽ nhận được tất cả phiếu của đại cử tri tiểu bang đó.
– California đông dân nhất nước Mỹ nên có số phiếu đại cử tri lớn nhất là 55. Một số tiểu bang nhỏ và đặc khu Washington DC chỉ có 3 phiếu đại cử tri.
– Để trở thành tổng thống, một ứng viên cần hội đủ tối thiếu 270 phiếu đại cử tri. Người đắc cử không nhất thiết phải giành chiến thắng về số phiếu phổ thông trên cả nước, như trường hợp của George W. Bush nói trên. Bush được 271 phiếu đại cử tri, Al Gore chỉ được 266 phiếu. Tiểu bang quyết định chuyện thắng thua này là Florida, nơi toàn bộ 25 đại cử tri tại đây bỏ phiếu cho Bush, bất chấp việc chênh lệch phiếu phổ thông tại Florida của hai ứng viên chỉ là 537 lá.

– Khi nước Mỹ được khai sinh, chiến dịch vận động và bỏ phiếu đồng loạt ở tầm vóc quốc gia gần như không thể do khả năng thông tin thời đó còn thô sơ.
– Những người soạn ra bản Hiến pháp năm 1787 của nước Mỹ bác bỏ cách thức bầu tổng thống thông qua Quốc hội (do chia rẽ quyền lực), hoặc bầu trực tiếp của cử tri (do lo ngại người dân sẽ chỉ bầu cho ứng viên người địa phương và các tiểu bang lớn sẽ nắm vai trò thống trị).
– Có thể có bất công khi một ứng viên đắc cử tổng thống lại nhận được ít hơn số phiếu phổ thông so với người thất bại.
– Tại nhiều nơi (như California, Texas…), kết quả nghiêng về ứng viên đã được “an bài” trước. Do đó ít có sự khuyến khích cá nhân cử tri đi bỏ phiếu, cũng không hấp dẫn các ứng viên tới vận động tranh cử.
– Tuy không hoàn hảo, nhưng hệ thống này vẫn được tôn trọng và duy trì do nguồn gốc lịch sử của nó.
– Thường phản ánh chính xác lá phiếu của các cử tri phổ thông.
– Tạo cho các tiểu bang nhỏ có sức nặng hơn trong việc bầu chọn nhà lãnh đạo đất nước.
Ví dụ tiểu bang lớn nhất California chiếm 12,03% dân số nước Mỹ, nhưng cử tri đoàn gồm 55 đại cử tri của họ chỉ chiếm 10,22% số đại cử tri cả nước. Trong khi Wyoming dân cư thưa thớt chỉ chiếm 0,18% dân số nước Mỹ nhưng có 3 phiếu đại cử tri, chiếm 0,56% tổng số đại cử tri Mỹ.
– Xác định rằng một ứng viên muốn chiến thắng phải nhận được sự ủng hộ của các lá phiếu trên phạm vi cả nước.