LỜI GIỚI THIỆU: Bài Phỏng vấn do Nhà phê bình Nguyễn Mạnh Trinh (NMT) và Nhã Lan (NL) thực hiện cho Little Sàigòn Radio, Hồn Việt TV, và Việt Tide. Trangđài Glassey-Trầnguyễn là người cầm bút nữ đầu tiên và trẻ nhất xuất hiện trong chương trình của đài từ nhiều năm qua. Để có thêm thông tin về các tác phẩm của Trangđài, xin vào www.trangdai.net, vietamproj@gmail.com.

Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Nguyễn Mạnh Trinh (NMT): Trangđài Glassey-Trầnguyễn là một người trẻ. Trẻ từ tâm hồn và trẻ từ tuổi tác. Trong khi có nhiều người ưu tư về hiện tượng lão hóa của văn học Việt Nam hải ngoại thì có những người trẻ vào cuộc. Có khi họ viết bằng Anh ngữ, Pháp ngữ nơi quốc gia mà họ định cư. Có khi họ viết bằng Việt ngữ. Hay song ngữ Anh–Việt, Pháp–Việt. Nhưng những người trẻ này đã viết và đã sống, đã sinh hoạt văn chương, xã hội bằng tâm thức Việt Nam, của đất nước và gia đình truyền thụ lại. Trangđài Glassey-Trầnguyễn là một trong những người trẻ ấy.
Nhã Lan (NL): Nói chuyện với Trangđài Glassey-Trầnguyễn trong cái thích thú của sự tìm hiểu về một thế hệ mà có lẽ những người lớn tuổi thuộc thế hệ thứ nhất, chúng tôi, Nguyễn Mạnh Trinh và Nhã Lan, hiếm khi được hân hạnh có một khách mời đặc biệt như vậy. Cô là cây bút nữ đầu tiên và trẻ nhất được mời xuất hiện trong chương trình Tản mạn Văn Học trong nhiều năm nay.
Trangđài là một sinh viên xuất sắc, tốt nghiệp B.A. tại CSUF với 4 major, với danh dự Thủ Khoa đến hai ngành. Chỉ hai năm sau, cô tốt nghiệp Cao học và đoạt giải thưởng Outstanding Graduate Award và Outstanding Senior Award của Alumni Association của CSUF. Cô còn nhận được Fulbright Scholar Fellowship bậc tối ưu để nghiên cứu về lãnh vực social anthropology về những người Việt tị nạn thế hệ thứ nhất tại Thụy Điển, và được cấp học bổng toàn phần cho chương trình tiến sĩ về nhân chủng học tại Đại Học Stanford.

Tác giả (giữa) và các sinh viên đoạt giải tại cuộc tranh tài nghiên cứu của hệ thống CSU năm 2004
Trangđài Glassey-Trầnguyễn còn là một người trẻ hăng say hoạt động xã hội, văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục. Cô đã khởi xướng và chủ trương nhiều projects về cộng đồng Việt Nam hải ngoại, và là người Việt duy nhất đã thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn lịch sử truyền khẩu với người Việt ở các Châu Á, Âu, Mỹ, và Úc. Cô đặc biệt chú trọng đến lịch sử di dân và lịch sử cộng đồng, cũng như về truyền thông, về văn hóa Việt Nam qua những Dự án như The Vietnamese –Language Media Project, The Vietnamese Katrina Project, Dự án “Black April, Bright April: From Postwar Pain to Personal Peace” (Tháng Tư Đen, Tháng Tư Sáng: Từ Đắng cay hậu chiến đến Bình an tâm hồn). Cô đã đoạt nhiều giải thưởng về nghiên cứu và sáng tác, trong đó có giải quán quân toàn thành năm 2004 cho cuộc tranh tài nghiên cứu bậc hậu đại học trên toàn tiểu bang California với Dự án, “Quận Cam, Sử Vàng.”
NMT: Trangđài Glassey-Trầnguyễn đã hoàn tất năm tập thơ. Mỗi tập thơ là những bước chân đi vào đời sống, tuy là của riêng cá nhân của cô, nhưng lại có tính chất chung của nhiều người cùng một thế hệ. Từ tập thơ song ngữ “Thuyền Nhân Khúc cho Ba” (Songs for a Boat Father) với tâm tình của một cô bé với những câu thơ chân thực nhưng đầy cảm xúc thay mặt cho người cha ghi chép lại, với thái độ chia sẻ trong nỗi niềm đau khổ truân chuyên của quá khứ và tin tưởng vào tốt đẹp của tình người ở tương lai. Rồi đến tập thơ “cút bắt” là những cảm nghiệm từ đức tin tôn giáo, của những suy tư về cuộc sống và những đắm chìm vào thế giới linh thiêng đầy ý nghĩa nhân bản. Tập thơ song ngữ “những điều trông thấy” (of things i’ve seen) viết khi tác giả về thăm lại quê nhà là những câu thơ đi trở lại quá khứ, về nơi chốn đã sống, đã có kỷ niệm với. Những tâm cảm chân thực, của một người rất yêu đất nước, dân tộc mình. Tập thơ mới đây “MÙA YÊU CON Thứ Nhất” là những bài thơ tuyệt vời của bà mẹ trẻ dành cho con, những tâm tình rất Việt Nam nhưng cũng rất gần gũi với suy nghĩ, với hiện thực cuộc sống hiện nay…

Tác giả trong một buổi thảo luận về chương trình Fulbright tại United Nations Plaza- Manhattan-2007
NL: Trangđài Glassey-Trầnguyễn (TGT) định cư ở Hoa Kỳ năm nào và con đường hội nhập ra sao? Có khó khăn nhiều không?
Trangđài Glassey-Trầnguyễn (TGT): Kính chào Chị Nhã Lan và Chú Nguyễn Mạnh Trinh. Xin kính chào quý khán thính giả của Little Sàigòn Radio, Hồn Việt TV, và độc giả của Tuần báo Việt Tide. Thưa Chị, Trangđài đến Mỹ năm 1994. Con đường hội nhập có lẽ cũng khởi đầu như bao nhiêu người di cư và tỵ nạn khác: nhiều ngỡ ngàng, nhiều vất vả, nhiều thử thách, nhưng cũng nhiều hứa hẹn. Không ít thì nhiều, khó khăn trong bước đầu tái thiết cuộc sống ở một đất nước thứ hai là điều hiển nhiên, từ việc hội nhập ngôn ngữ và văn hóa, cho đến việc mưu sinh.
Tuy nhiên, Trangđài có hai lợi điểm. Thứ nhất, em không đến Mỹ với một kỳ vọng sẽ tìm thấy một cuộc sống dễ dàng, như nhiều người vẫn ngộ nhận trước khi đến đây định cư. Do đó, em không ngại những vất vả trong bước đầu định cư, sẵn sàng đi may hay đi làm thu ngân ở chợ để vừa học tiếng Anh, vừa đóng góp thu nhập cho gia đình, và cũng tham gia những công tác thiện nguyện ngay từ ngày đầu tiên ở Mỹ. Qua Mỹ được ít tháng thì em thi vào chương trình phụ giáo song ngữ tại học khu Westminster và làm việc này trong nhiều năm.
Thứ hai, em hiểu rất rõ rằng, cơ hội được định cư ở Mỹ là một cuộc đổi đời, trước hết là được đoàn tụ với Ba, sau nữa là thoát khỏi cảnh 19 năm sống tại Việt Nam, không được học hành đến nơi đến chốn, bị quản chế và bức bách đủ điều.

Trangđài tại Phố cổ Stockholm-2004
NL: Tham gia những hoạt động xã hội, báo chí trong thời sinh viên có phải là môi trường để Trangđài bước vào thi ca?
TGT: Thưa Chị, em mê thơ văn từ nhỏ, và đã làm thơ từ lúc còn ở Việt Nam, từ hồi tiểu học. Lúc đó, em đã đi thi giỏi văn nhiều lần. Nhưng lúc ở Việt Nam, tư duy còn non nớt, kinh nghiệm sống không có tự do thì thừa, nhưng giới hạn trong cái vòng lẩn quẩn của một xã hội đóng kín và bó rọ.
Cho nên, đúng như nhận xét tinh tế của Chị Nhã Lan, chính môi trường sinh viên tại Hoa Kỳ đã phá mở tất cả những rào cản đó, và em bắt đầu sáng tác những bài thơ được phổ biến trên báo chí Việt Ngữ ngay những năm đầu tiên định cư. Cũng xin nhấn mạnh, là tuy môi trường sinh viên cho em một không gian mở để đắm mình trong sáng tạo, chính môi trường cộng đồng Việt Mỹ và đời sống gia đình tại Quận Cam mới cho em những chất xúc tác và nguyên liệu cần thiết cho việc làm thơ, viết văn, và cả việc nghiên cứu, thưa Chị.
NMT: Trangđài định cư ở Mỹ lúc 19 tuổi, có nghĩa là đã xong bậc trung học ở Việt Nam. Giáo dục XHCN có ảnh hưởng thế nào?
TGT: Thưa Chú, cháu chỉ mới học đến đầu năm 12 ở Việt Nam thì nghỉ học, trước khi gia đình sang Mỹ. Cháu sinh cuối năm 1975, nên thuộc lớp đầu tiên theo chương trình cải cách giáo dục, khi chính quyền mới thay đổi toàn bộ các sách giáo khoa và thầy cô giáo. Cũng như những chương trình cải cách khác của chính quyền Cộng Sản ở Việt Nam (hay Trung Quốc, và những quốc gia Cộng Sản khác ở Đông Âu hay Nga Sô), chương trình cải cách giáo dục này là một thí nghiệm dở khóc dở cười, đã giết chết tư duy của hàng bao thế hệ cho đến tận hôm nay.
Cháu có một may mắn là được nghe những trao đổi của người lớn trong gia đình, và tuy người lớn luôn nói chuyện với nhau gần như bằng mật mã, cháu cũng loáng thoáng nhận ra có một khoảng cách giữa sự thật, và những điều mình bị bắt nghe ra rả trên đài phát thanh một ngày 3 lần, hay những gì mình học ở trường.
Từ khi có trí khôn, cháu đã đặt câu hỏi về mọi vấn đề: Tại sao Ông Bà Ngoại cháu phải gánh gần hết lúa đi nộp cho Xã mỗi mùa gặt? Tại sao chị cháu không được thi vào trường đại học? Tại sao Ba không ở nhà với gia đình, và không ai dám nói Ba đang ở đâu? Tại sao Mẹ cứ phải đi họp phường, họp khóm, và phải nộp tiền cho Tổ trưởng thường xuyên, trong khi Mẹ không có đồng nào để đi chợ? Tại sao người ta cứ muốn xét nhà lúc nào thì xét, ngay cả lúc tụi cháu đang ngủ?
Đây chính là những bài học vỡ lòng mà dù chính quyền không đưa vào chương trình cải cách giáo dục, lại chính là những bài học sâu đậm và thiết thực nhất mà cháu tiếp nhận khi lớn lên ở Việt Nam sau 1975.
NMT: Lúc ấy Trangđài đọc sách như thế nào? Có đọc những tác phẩm in trước năm 1975 không?
TGT: Không có sách để đọc, thưa Chú. Sách vở thời đó hiếm, bị kiểm soát tuyệt đối, và rất đắc. Sách giáo khoa do chính Nhà Nước phát hành còn đắt đỏ, huống chi những loại sách cấm. Giấy in thời đó rất xấu. Chị em cháu đi học, phải dùng “giấy cứt chó,” nó đen nhám, rơm sồi rạ sụt, viết lên thì như cày ruộng, sẽ có rơm từng sợi nhảy lên khỏi mặt giấy, không thấy được mình đã viết gì.
Vì cháu rất thích đọc, nên đã tìm đọc ké một số sách cũ còn sót lại sau cuộc hỏa thiêu Tháng Tư năm 1975. Cháu tìm được những tập vở cũ của Dì và Mẹ còn sót lại, chép bằng tay những bài ca dao hay những áng văn hay. Trước 1975, Ông Bà Ngoại cũng có kinh doanh một thư quán, nên cháu cũng tìm được một vài quyển sách giáo khoa thời trước, nhất là sách giảng văn. Ông Ngoại cháu là một người rất uyên bác, nên khi về thăm Ngoại, cháu vừa được nghe Ông nói chuyện, vừa lân la đọc lén sách của Ông. Ông giữ được một thư viện nhỏ với nhiều sách quý cho riêng mình, dù thời đó Ông đã bị bắt đi bắt lại, và bị tịch thu rất nhiều thứ.
Thêm vào đó, cháu cũng tìm đọc những quyển sách vô tự, không chữ không lời. Cháu đã tận dụng cái không gian yên tĩnh ở quê Ngoại tại Bình Phú Đông để tiếp cận với cái tâm sơ của mình, và để cho cái tâm sơ đó hướng dẫn nhận định và suy nghĩ của mình. Thiên nhiên là một quyển sách khai mở tâm thức vô tận mà chính quyền không biết để cấm, dù hiện nay, quyển sách ấy đã bị phá hủy và khai thác đến tan nát tại Việt Nam.
NL: Là một gia đình “Ngụy,” Trangđài có bị những phân biệt đối xử ở trong học đường và trong cuộc sống không?
TGT: Thưa Chị, chắc chắn là có. Ở thời đó, ai ai cũng bị phân biệt chỉ trừ thành phần nhỏ con cái cán bộ. Vì em chào đời sau Tháng Tư 1975, nên không có kinh nghiệm của một đời sống tự do và tôn trọng nhân quyền để đối chiếu. Cho nên, mình biết là mình thuộc thành phần bị chính quyền đàn áp, nhưng mình không hình dung được một đời sống công bình, tự do nó ra sao.
Trong quyển thơ thứ tư, “Thuyền Nhân Khúc cho Ba – Songs for a Boat Father,” em có ghi lại những lần bị kỳ thị ở trường. Thầy Giám thị hạch hỏi tại sao Ba em không đi họp phụ huynh, còn Mẹ thì phải đi làm đồng ở quê Ngoại vì ngày họp rơi vào đúng ngày gặt. Những thầy cô khác trong văn phòng thì chỉ trích thêu dệt, nói là Ba nó theo vợ bé, thế này thế nọ. Cho nên, không chỉ người lớn mới bị đàn áp, mà trẻ con tụi em còn chịu nạn dồn ép tâm lý nặng nề hơn, vì tụi em hoàn toàn không biết cách đối phó. Bên cạnh đó, Mẹ em bị cho nghỉ dạy vì là vợ ngụy, Chị em không được thi vào đại học, khóc suốt ba tháng Hè. Ngoài ra, gia đình em còn bị kỳ thị vì lý do tôn giáo. Nhưng sau gần 40 năm nhìn lại, chúng ta thấy rõ rằng, những áp đảo và kỳ thị đó không thay đổi được niềm tin và sự thật.
NL: Trangđài sửa soạn cuộc sống tương lai ở Mỹ như thế nào khi chờ đợi để đoàn tụ gia đình với người cha?
TGT: Cũng như nhiều người khác, Mẹ em cũng cho con cái đi học tiếng Anh và một nghề nào đó ở Sàigòn. Anh của em thì học thợ bạc và vi tính. Các chị của em học bắt bông kem, học may, học đàn, học cắm hoa, học vi tính – tất cả những kiến thức mà Mẹ em đoán là sẽ giúp mình tìm được một công việc tạm trong thời gian đầu. Mẹ em luôn đầu tư cho việc học của con, coi đó là cứu cánh cho tương lai, nên tụi em hiểu là khi tới Mỹ, mình sẽ vừa đi làm, vừa đi học, dù chưa biết là có những chương trình tài trợ cho việc học đại học rất thuận lợi ở Mỹ này.
Lúc đó, em không muốn rời khỏi Việt Nam, dù cuộc sống quá chật vật và vô định, và dù cũng háo hức muốn gặp Ba. Biết bao người thân còn ở lại, biết bao kỷ niệm của 19 năm, tất cả những sự gắn bó với mảnh đất mà mình đã yêu thương. Em chưa hẹn hò với ai, nên không phải đau lòng vì xa người yêu như nhiều người khác khi đi xuất ngoại. Nhưng đời sống ở Việt Nam thời đó rất cố định, vì không có phương tiện đi lại, cũng như không được phép tự do đi lại, nên dời đổi chỗ ở là cả một biến cố lớn. Về mặt tâm lý, em cũng không chuẩn bị gì đặc biệt cho đời sống mới ở Mỹ, vì mình không thể hình dung nó ra làm sao. Tại Việt Nam lúc đó, thông tin về đời sống ở hải ngoại hay về thế giới rất giới hạn, hầu như không có, thưa Chị.
NMT: Trangđài có đọc những nhà văn và nhà thơ ở trong nước không? Đặc biệt là các tác giả phải học trong chương trình văn ở trung học?
TGT: Có đọc, nhưng không nhập tâm, thưa Chú, vì họ toàn hô khẩu hiệu và sáo rỗng, ngay cả những bài thơ nhi đồng. Những tác giả đó không cho cháu một món ăn tinh thần hay nghệ thuật nào cả. Khi lên đến trung học, thì cháu được học với một Thầy dạy văn, đã từng làm chánh án trước 1975. Thầy phải vừa làm ruộng vừa đi dạy, và hay bị chính quyền kêu lên kiểm điểm, nhưng Thầy vẫn nói nhiều điều mà chính quyền cấm nhưng đúng với lương tâm của một người đứng trên bục giảng. Khi đi định cư, cháu đã mang theo một số bài luận cháu đã viết từ lúc học với Thầy, và vẫn còn giữ đến hôm nay.
Còn lại thì các Thầy Cô khác đều dạy theo biên chế và giảng theo chỉ thị, nên trong các giờ văn trong suốt gần 12 năm học, cháu cũng không học hỏi được gì nhiều từ những nhà văn mình đã đọc.
NMT: Đọc như vậy có ảnh hưởng cho sáng tác lúc sau này không?
TGT: Không ảnh hưởng, thưa Chú, vì họ không gây được một ấn tượng gì cho cháu. Ngược lại, những sách vở mà cháu mót được quanh nhà lại kích thích óc tưởng tượng và sự hiểu biết của cháu. Những câu đố dân gian rất thú vị trong quyển tập cũ của Dì, những câu sấm Trạng Trình trong sách giảng văn trước 1975 – tất cả đều gợi cho cháu một sự hoài cổ và hào hứng, nhất là khi mình có thể nhận diện được những điều trong sách mà người lớn trao đổi với nhau. Hơn nữa, cháu đọc ké tủ sách của Ông Ngoại, và được gặp gỡ biết bao nhà văn của Việt Nam thời trước, nên đối với một đứa trẻ, đó là cả một thế giới bí mật vô cùng thú vị.
NL: Trangđài bắt đầu viết văn làm thơ lúc nào? Có kỷ niệm nào đáng nhớ về những dòng chữ đầu tiên ấy không?
TGT: Thưa Chị, em tập viết lúc nhỏ, và cũng được chọn đi thi giỏi văn nhiều lần. Nhưng có lẽ “tác phẩm” đáng chú ý nhất lúc đó vẫn là bức thư phản kháng em viết cho một vị Thầy Sáu về giúp xứ tại họ đạo của em. Lúc đó, em mới 7 tuổi, và được học Giáo lý vỡ lòng. Tuy em thuộc bài và đi học đầy đủ, nhưng năm đó, em không được rước lễ lần đầu. Em giận quá, nhất quyết đòi Mẹ đưa đi gặp Cha sở. Mà ai cũng nể sợ Cha, đâu phải muốn gặp là gặp. Nhưng Mẹ cũng đưa em đi. Gặp Cha đang câu cá, em nói em muốn rước lễ như mọi người. Cha nói sẽ được, nhưng đợi sang năm. Thế là Mẹ dắt em về.
Ức quá, em nghĩ chắc là Thầy Sáu đì mình, nên viết một bức thư, gọi Thầy là ‘ông Thầy hắc ám,’ và tuyên bố: dù Thầy Sáu không cho em rước lễ, thì em cũng đã rước lễ cách thiêng liêng rồi. Cả nhà rình rập trong lúc em viết thư. Tuy em giấu đi, nhưng Mẹ vẫn tìm được, và đem cho Thầy Sáu đọc. Em vừa tức vừa lo, nhất là khi Thầy ghé nhà chào gia đình trước khi trở lại nhà dòng. Em xấu hổ là mình đã viết thư lên án Thầy, nhưng Thầy vẫn vui vẻ, không giận dỗi gì cả. Bức thư đó đã trở thành reputation của em trong họ đạo. Khi Thầy được phong chức linh mục, các soeur có viết thư sang, đùa là sẽ để cho em vinh dự làm người đầu tiên được xưng tội với Cha mới.
Những năm cuối tiểu học, em mon men làm thơ, nhưng chỉ giấu riêng vì mắc cỡ, sợ người nhà tìm thấy. Đến cấp hai, thì có làm thơ đăng báo tường của lớp, nhưng tiếc là lúc đó còn nhỏ, em chưa biết giữ lại bản thảo cho mình, còn báo tường thì chắc đã được bán làm giấy vụn từ lâu nên không mong gì tìm lại được. Những bài thơ đó cũng chỉ xoay quanh những tình cảm học đường và gia đình.
NL: Động lực nào khiến Trangđài cầm bút?
TGT: Có nhiều động lực, thưa Chị. Thứ nhất, là cảm hứng sáng tác, và đam mê sáng tạo. Thứ hai, em ý thức và mượn ngòi bút để làm những công việc mình muốn làm: chẳng hạn như diễn đạt tình yêu quê hương, hoặc nói lên những bất công trong xã hội, hay để ghi lại lịch sử của người Việt hải ngoại. Thứ ba, đối với em, cầm bút là một chọn lựa để hiện hữu: không viết, thì coi như ngưng thở. Nó là một nhu cầu tất yếu của bản thân. Ngoài ra, qua công việc nghiên cứu và viết lách, em có dịp đóng góp cho xã hội năng lực tích cực nhất của mình. Đó là một ơn gọi và một đãi ngộ, vì không phải ai cũng có thời gian và quyết tâm để làm việc này, cho dù họ có muốn đi nữa. Viết, đối với em, là một cách sống.
Hơn nữa, như Chị cũng biết, chúng ta ra đi từ một xứ sở không có tự do, nên quyền cầm bút và quyền xuất bản tác phẩm cho đến ngày hôm nay vẫn không là hiện thực cho những người còn ở trong nước, từ thi sĩ như Vi Thùy Linh cho đến những nhà hoạt động tư tưởng như Huỳnh Thục Vy. Họ không được tự do phổ biến thơ văn của mình qua các nhà xuất bản hoặc diễn đàn công cộng. Mỗi ngày, em đều ý thức được, cái quyền tự do cầm bút của mình là một điều xa vời đối với nhiều người cầm bút trong nước.