Trong một số báo trước chúng ta đã tìm hiểu về nhiệt độ, cùng với các thang Farenheit (F), Celsius (C) và Kevin (K).
Để đo nhiệt độ, người ta dùng nhiệt kế. Nhiệt kế đầu tiên được nhà bác học Galileo phát triển vào khoảng năm 1592, thực ra chỉ là một thermoscope (nhiệt kế chưa có số đo). Nó gồm một bình lớn có cổ để hở chứa rượu để cảm nhận sự thay đổi nhiệt độ.

Mãi tới năm 1611 một đồng nghiệp của ông là Sanctorius mới thêm vào một thước đo để đọc được nhiệt độ. Vào lúc này, dụng cụ được gọi là thermometer, là kết hợp của hai từ ngữ Hy Lạp: therme (nhiệt) và metron (đo). Đến khoảng năm 1644 Grand Duke Ferdinand II người xứ Tuscany mới phát triển cách gắn kín bình lại để tránh ảnh hưởng của áp suất không khí. Kể từ đó, nhiệt kế ít thay đổi nữa nhưng được cải tiến dần dần để hoàn chỉnh như ngày nay và phát triển thành nhiều loại:

– Nhiệt kế thuỷ ngân (mercury thermometer) có một bầu ở dưới đáy chứa thuỷ ngân và một ống dài. Khi nhiệt độ tăng, thuỷ ngân trong bầu dãn nở và lên cao trong ống. Ống được chia độ theo các thang Fahrenheit (F) hoặc Celsius (C). Mực thuỷ ngân lên cao trong ống xác định nhiệt độ tuỳ theo các thang độ. Trong nhiệt kế rượu (alcohol thermometer), thay vì thuỷ ngân người ta có thể dùng ethanol hoặc toluene trong bầu, và cách vận hành cũng giống như nhiệt kế thủy ngân

– Nhiệt kế số (digital thermometer) dùng các thermocouples hoặc thermistors để cảm nhận sự thay đổi nhiệt độ và biểu hiện trên một mặt số.

– Nhiệt kế thông thường là loại ta thấy treo trên tường, trên cột ở nhà.

– Nhiệt kế ngoài nhà: để đo nhiệt độ không khí chung quanh.

Nhiệt kế ngoài nhà
– Nhiệt kế ghi (recording thermometer) dùng một cây viết và một ống lăn tròn đều đặn liên tục để ghi nhiệt độ trong một khoảng thời gian.

– Nhiệt kế bệnh viện (clinical thermometer) dùng để đo thân nhiệt của một bệnh nhân. Tuỳ theo bộ phận cơ thể muốn đo nhiệt độ ta có :
– Nhiệt kế tai (Tympanic thermometer): Tai con người gần bộ óc, do đó là điểm chính xác để đo thân nhiệt. Người ta dùng nhiệt kế tai để đo nhiệt độ màng nhĩ. Tuy nhiên đây là bộ phận rất mỏng manh và tinh tế của thân thể nên không thể đo bằng phương pháp tiếp xúc trực triếp mà dùng các bộ phận cảm biến hồng ngoại (infrared sensors) để đo từ xa. Bộ phận cảm biến hồng ngoại thường dùng là Thermophile.

– Nhiệt kế ngậm như núm vú (pacifier thermometer) là dụng cụ dùng để đo nhiệt độ trẻ em, được chế tạo đặc biệt để không làm các bé bực bội, nên giống như núm vú giả các em thường ngậm để khỏi khóc. Bản năng thông thường của các bé là nút núm vú khi được bỏ vào miệng. Đây là dụng cụ rất an toàn để đo nhiệt độ các bé.

– Nhiệt kế kẹp dưới nách hoặc ngậm trong miệng (underarm or oral thermometer): Đây là hai cách đo nhiệt độ thông thường: đặt nhiệt kế dưới nách hoặc cho ngậm dưới lưỡi một khoảng thời gian để ghi nhiệt độ thân thể.

– Nhiệt kế thực phẩm (food thermometer) dùng để đo nhiệt độ đồ ăn khi chúng ta nấu nướng. Có nhiều loại:
– Dial oven-safe thermometer: dùng để đo nhiệt độ những miếng thực phẩm dày và có thể để ngay trên đồ ăn lúc nấu nướng trong lò. Loại này không thích hợp cho những loại thịt mỏng hoặc có nhiều nước.

– Digital instant thermometer: không thể để trong đồ ăn lúc nấu nướng. Loại này rất nhạy bén: chỉ cần 10 giây đồng hồ là cho biết ngay nhiệt độ.

– Pop-up thermometer: để đo nhiệt độ gà và gà tây

– Disposable thermometer strip: dùng đo nhiệt độ thực phẩm sau khi nấu. Mầu sắc trên những miếng này thay đổi tuỳ theo nhiệt độ, có thể dùng một đồ biểu để biết nhiệt độ tương ứng.
