Menu Close

Mưa Phnom Penh

Cuối cùng, tôi cũng đến Phnom Penh. Phnom Penh của Hậu, Phnom Penh của tôi trong trí tưởng tượng. Tôi đẩy xe hành lý qua hải quan. Tôi chờ đợi những âm thanh náo động bên ngoài như năm nào tôi về phi trường Tân Sơn Nhất. Hai cánh cửa mở ra. Hơi nóng ngột ngạt bốc lên mặt. Tiếng lá cây rì rào xen trong tiếng người nói nhè nhẹ khiến tôi bỡ ngỡ. Phi trường Phnom Penh vắng vẻ như thành phố tỉnh nhỏ. Buổi trưa nắng chói. Những tàn phượng rực rỡ nở trên bầu trời xanh. Chúng tôi ra lề đường chờ xe nhà đến đón.

alt

Xóm người Việt ở làng Po Thum

Frère Anh đến đón chúng tôi bằng bốn chiếc xe tuk tuk. Chúng tôi chất hành lý lên xe. Tôi nhảy lên một chiếc với mấy valise áo quần. Xe nổ máy xình xịch rời phi trường, chạy vào trung tâm thành phố. Người có đông hơn, xe có nhiều hơn chút ít, nhưng vẫn một khung cảnh vắng vẻ của ngoại ô cũ kỹ. Một vài con đường mới được tân trang với nhà lầu và siêu thị lớn. Đế quốc Khmer đã có thời thịnh vượng nhất Đông Nam Á. Trải qua thời kỳ Pháp thuộc, cuộc chiến với Việt Nam, và bị cai trị bởi bọn diệt chủng Pol Pot, vương quốc Khmer dường như vẫn còn mang đầy trong mình những vết thương chưa lành. Tôi ngồi trên xe, ngắm đường phố Phnom Penh lần đầu trong đời, tưởng chừng như đi về một nơi chốn xa xưa trong ký ức.

Xe xuống dốc chạy vòng theo bờ sông thoai thoải. Bến phà hiện ra đột ngột ở cuối con đường. Bốn chiếc tuk tuk chạy lên phà, đậu theo thứ tự trước sau. Chúng tôi leo lên tầng hai để tránh khói và tiếng ồn. Gió mát rượi ở tầng hai. Tôi đứng ở đầu phà, nhìn suốt dòng sông soi nắng óng ánh. Từ đây xuôi dòng về Nam, nước sẽ chảy về sông Hậu sông Tiền, về Bến Tre Vĩnh Long. Miền Nam của quê hương tôi ở đó. Mảnh đất màu mỡ phù sa tôi chưa từng đặt chân đến. Rừng tràm của Đồng Tháp Mười bạt ngàn như tôi đọc trong sách giáo khoa. Tôi đã đọc Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc và say mê khung cảnh u tịch của rừng U Minh từ đó. Không biết bây giờ có còn rùa nhiều như kiến nữa không? Thằng Cộc đã cưới được con Thôi chưa? Và đất ở gò Ô Heo đã thuần để cho người nghèo trồng xoài mít dừa cau?

Phà nổ máy lạch bạch rời bến. Tôi nhìn mặt nước đục ngầu phù sa, nhớ Hậu. Hậu của Mưa Ở Phnom Penh tôi viết năm nào. Tôi thầm hỏi có phải Hậu của tôi đã từng dầm mình trong dòng sông này? Có phải bờ bên kia, đằng sau dãy nhà lụp xụp, nơi có “dề ” lục bình tần ngần đậu lại là chỗ Hậu đã nhào xuống sau lần đầu tiên bị cưỡng bức? Mặt trời chói lòa làm mắt tôi đổ quáng, cả khoảng không gian rung rinh như nước xao, và tôi tưởng chừng như mình thấy Hậu, bằng xương bằng thịt.

Bến phà bên này sông là dãy bè nuôi cá của người Việt. Bè này tiếp theo bè kia, dập dềnh trên sóng. Đời sống của người dân Việt ở đây cũng lênh đênh như bè. Nước lên nước xuống đưa đẩy buồn phiền. Cả khúc sông lặng tăm, chỉ có tiếng máy phà lạch xạch. Một câu vọng cổ ngân nga tỏa lan trên mặt nước. Chắc chẳng khác gì một khúc sông của quê nhà. Phà cập bến, những đứa bé Việt da đen không thua màu da thổ dân đứng trên bè chỉ trỏ. Tôi đưa tay vẫy vẫy trước khi lên xe, tiếp tục lộ trình vào làng.

Làng nghèo lắm, chỉ cách đô thị một dòng sông mà như hai thế giới cách biệt. Đường làng đất đỏ, bụi tung mù theo từng vòng xe qua. Bốn chiếc tuk tuk chạy rậm rị trên con đường lồi lõm ổ gà ổ trâu. Hầu hết nhà dân ở đây xây theo kiểu nhà sàn để tránh lụt. Sàn dưới để sạp ngồi và nhà bếp; sàn trên để ngủ. Sân nhà nào cũng trang bị vài cái lu để chứa nước mưa. Trẻ con lang thang trên đường, chung với xe đạp, xe thồ, với chó, với voi. Có đứa mặc quần, có đứa chạy tồng ngồng, da mốc meo vì bụi đất. Cách vài quãng đường, tôi lại thấy một quán nước nhỏ, lèo tèo vài hộp bánh, cái kẹo. Xe chạy ngang qua ngôi chùa vừa xong giờ kinh. Màu áo sư tăng vàng cam phất phới như những cánh bướm rực rỡ chào đón chúng tôi.

*
Buổi tối đầu tiên ở trường La Salle Po Thum, tôi không thể nào ngủ. Mặt trời xuống rất nhanh ở miền quê. Từ trường, tôi không nhìn thấy sông, nhưng tôi biết, sông ở về phía tay phải của trường, cách vườn chuối độ vài trăm mét. Bên kia sông, lập lòe vài ngọn đèn. Gió mát đã bắt đầu thổi từ lúc mặt trời lặn. Cánh đồng quanh trường xào xạc tựa Đồng cỏ Miên của Trần Vũ. Tôi nghĩ đến những nhân vật của anh, “tôi”, Trình, Côn, Tùng, những người thanh niên Việt Nam thi hành nghĩa vụ quân sự ở Campuchia.  Anh Năng, anh họ tôi, cũng trở về từ đồng cỏ Miên hoang dại, da thâm sì vì vi trùng sốt rét. Buổi chiều vào làng tôi đã gặp người bản xứ. Tôi nhìn vào khuôn mặt những thanh niên Khmer, tìm tia lửa ác độc của tên cầm súng đã bắn vào những nhân vật của Trần Vũ, nhưng tôi chỉ thấy người Khmer da đen kịt, hiền lành đến khờ khạo. Tôi chỉ thấy người dân Khmer nhẫn nhục, chịu mất từng tấc đất cho lòng tham bành trướng của lân bang. Những tên cầm súng đó chắc đã chết, đã xuống mồ với bọn Khmer Đỏ.

Mặt trời vừa sụp là tiếng dế và cóc nhái trổi lên. Không phải bản hòa tấu côn trùng êm đềm ru ngủ mà ầm ĩ đến nhức óc. Tôi thiếp đi được một lát rồi thức giấc lúc gần sáng. Căn phòng mờ. Một chút ánh sáng vàng của đèn neon chiếu vào từ hành lang, hắt lên tường những hình ảnh ma mị. Những cái đầu lâu trắng hếu chồng trên kệ tựa hộp đồ chơi xếp đều. Tôi nhắm chặt mắt. Có tiếng trẻ con ré lên ở góc phòng. Tim tôi đánh thót. Thêm một tiếng khóc thét, một tiếng nữa, một tiếng nữa. Cả căn phòng ngập tiếng kêu gào. Tôi bịt tai. Tôi nhắm mắt. Tay tôi toát mồ hôi. Một rừng âm thanh chợt tắt, chỉ còn những thân xác trẻ thơ phơi bày, đầu dập vào thân cây nát bét. Tôi sợ hãi nhìn những đôi mắt trẻ con chết vẫn còn mở trừng. Bảo tàng diệt chủng Toul Sleng và Cánh Đồng Chết The Killing Fields sẽ còn ám ảnh tôi mãi. Tôi ngồi dậy mở đèn, nhìn đồng hồ tay. Bốn giờ sáng. Bên kia sông, loa phóng thanh của chùa bắt đầu tụng kinh buổi sáng. Bên ngoài có ai đó đã rục rịch thức dậy.

alt

TVy và học trò

Chúng tôi bắt đầu khai giảng các lớp Anh văn mùa hè cho các em nhỏ trong làng lúc một giờ trưa. Mười hai giờ đã thấy chúng lục tục kéo đến. Chung diệp xua. Chúng lễ phép chắp tay cúi đầu chào thầy cô. Tôi cũng chắp tay cúi đầu. Chung diệp xua. Học trò lớn còn mắc cỡ, nhưng những đứa bé lớp một cứ đu theo tôi. Chúng ân cần nắm tay tôi vào lớp. Học trò và cô giáo để dép ngoài cửa, như thói quen của người Khmer. Tôi nói tiếng Anh, các em nói tiếng Khmer. Mới đầu nói, sau ra hiệu tay chân, cuối cùng là đầu hàng. Thảo, thông dịch giúp cô. Tôi gọi Thảo cầu cứu. Thảo mười hai tuổi, thông thạo cả tiếng Khmer và tiếng Việt. Nhờ Thảo, bọn nhỏ mới hiểu tôi muốn nói gì. Trẻ con học gì cũng nhanh, chỉ vài ngày sau là chúng đã đoán được khoảng bảy mươi phần trăm những câu tiếng Anh thông thường tôi dùng trong lớp học. Chúng cũng biết đi tìm Thảo hoặc thằng Do để nhờ thông dịch khi tôi không hiểu. Sợ học trò Khmer ganh tị, tôi giữ đám trẻ Việt ở lại sau giờ học để nói chuyện riêng với chúng. Thảo, Thi An, Do, Tài, Lai, Phú. Những đứa trẻ Việt sống trong một làng Khmer nghèo khổ, không được công nhận là công dân Khmer. Phần đông người Việt ở đây đều phải làm khai sinh giả, lấy tên Khmer để được đi học, đi làm. Trong lớp học, Thảo là Kunthia, tên Khmer do các Soeur đặt cho để đến trường.

Đối với một làng quê nghèo, trường La Salle Po Thum là trung tâm điểm. Từ sáng sớm, khi trâu bò lững thững ra ruộng là các em đã đến chờ ở cổng. Các Frère chưa kịp ăn sáng đã phải ra mở cổng cho các em vào.  Bảy giờ rưỡi, các Frère đánh trống vào lớp cho bốn lớp mẫu giáo. Các em học lớp hè, dù bắt đầu vào buổi chiều, cũng đến đầy sân chơi. Tụi nhỏ rủ chúng tôi đi chợ, đi xe đạp xuống bến phà. Mấy ngày đầu, chưa quen, tôi đạp xe té lên té xuống trên con đường làng lồi lõm. Bọn nhỏ kháo nhau đừng để tôi chở. Chúng sợ té. Nhưng con bé Dani luôn muốn ngồi sau lưng tôi. Lên xe là Dani ôm lưng tôi chặt cứng. Tôi có cảm giác nó luôn áp mặt vào lưng tôi. Con bé bị bố bỏ, mẹ thì say xỉn tối ngày. Chở Dani, tôi không dám đạp nhanh. Con bé gầy như cái tăm, vất xuống đất chắc gẫy ngay vào nhánh xương sườn.  Đạp xe mệt chúng tôi dừng lại uống nước. Bọn nhỏ vây chung quanh xe nước dạo. Đứa nào cũng muốn uống xi-rô đá bào. Tôi nhìn cách pha xi-rô của họ mà phát hoảng. Một lớp sữa đặc ở dưới, một tầng đá bào, rồi xi-rô ở trên. Ngọt kiểu này nên đứa nào cũng sún răng. Trẻ quê nghèo chẳng biết tới bàn chải đánh răng. Kem đánh răng, nước sạch là những thứ xa xỉ với chúng. Buổi chiều chúng hay rủ chúng tôi đi bơi ngoài sông. Tôi đi với chúng ra bờ sông, nhưng không dám xuống, phần vì sợ nước sâu, phần thì sợ… phân bò. Hai con bò cũng đang ngụp lặn tắm chung với bọn nhỏ cách đó vài chục mét.

Chợ làng họp vào buổi sáng. Làng nghèo nên chợ cũng nghèo. Cây trái, thịt thà cũng không được tươi mới như chợ lớn ở Phnom Penh. Tôi yêu cảnh chợ quê, nhỏ mà thân thương. Xe đạp xe honda tới chợ cứ dựng ở đó, chẳng cần khóa chẳng cần trông, không ai lấy nhầm của ai bao giờ. Họ nghèo nhưng thành thật. Các Frère hay mua thức ăn để thưởng cho học trò. Một thùng mì gói, một bao gạo thiết thực cho cảnh nhà thiếu hụt của các em. Tôi không bao giờ quên được cảnh các em hí hửng đội thùng mì gói lên đầu chạy về nhà sau giờ học. Bố mẹ đứng đón con, miệng cười thật tươi.

Buổi sáng không dạy học, bọn trẻ dẫn tôi vào làng thăm xóm Việt Nam. Người Việt chiếm khoảng mười phần trăm dân số trong làng. Họ nghèo, như phần đông người Khmer ở đây. Ba của Thảo mời chúng tôi vào nhà. Cái cổng gỗ nhỏ ngăn nhà Thảo và lối đi chung trong xóm. Gia đình Thảo có chín anh chị em. Cả nhà sinh hoạt trong chu vi năm mét vuông. Anh lớn đi làm thợ mộc ngoài Phnom Penh. Hai chị kế làm phục vụ ở quán cơm.

“Rồi cô chú làm gì để sống?”

Tôi hỏi, ái ngại nhìn cảnh nhà xơ xác.

“Đêm thì tui đi lưới cá ngoài sông. Má tụi nhỏ đem bán ngoài chợ làng. Cũng đủ ngày hai bữa.” Ba Thảo trả lời.

Tôi nhìn người đàn ông miền Nam có gương mặt rắn rỏi, muốn hỏi vì sao ông mang gia đình lưu lạc đến làng Po Thum. Vì sao miền Nam màu mỡ, ruộng vườn cò bay thẳng cánh mà ông phải tha phương cầu thực nơi xứ người, dầm mưa dãi nắng cho một ngày vừa đủ hai bữa ăn và chu vi năm mét vuông. Người Việt tỵ nạn ở Mỹ, ở Canada, ở Pháp làm lương không thua gì công dân của nước họ, còn dành dụm gửi về hàng triệu đô la cho người thân ở Việt Nam. Ba Thảo im lặng nhiều hơn nói. Mắt ông lạc trong vòm khói thuốc. Rõ ràng ông đang nhớ quê. Như tôi. Nhưng hai hôm nữa, tôi sẽ về Sàigòn.

o O o

Tôi lên chuyến xe buýt Mekong Express xuất bến từ Phnom Penh. Mưa đổ xuống sầm sập khi xe bắt đầu lăn bánh. Tôi ngồi một mình ở hàng ghế đầu, không muốn bắt chuyện với ai. Hành khách trong xe phần nhiều là người Khmer và khách nước ngoài. Tôi đọc vài trang sách rồi lơ mơ ngủ. Xe lao băng băng. Tài xế suýt gây tai nạn mấy lần. Tôi hết tinh thần ngủ, ngồi nhìn những cánh đồng lướt trôi bên ngoài. Sáu giờ rưỡi chiều, xe đến cửa khẩu. Hành khách xuống xe, qua trạm hải quan của Campuchia. Tôi cầm hộ chiếu đến đóng dấu. Mưa hãy còn nặng hạt.

Chúng tôi lại phải xuống xe lần nữa, xách tất cả hành lý khi đi qua cửa khẩu Mộc Bài. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in cảm giác gai người khi vào phòng chờ. Bên trong ồn ào như chợ làng. Phòng chờ Mộc Bài không có đến một chiếc ghế để ngồi. Người mới đến dồn nhau vào xếp hàng. Người bên trong lố nhố đứng đợi, một số ngồi bệt trên sàn nhà. Lơ xe đã thu hết hộ chiếu của hành khách đem nộp cho nhân viên hải quan, nên tôi lớ ngớ không biết xếp vào hàng nào. Người đằng sau đẩy tới, người bên hông đẩy qua, tôi cứ bước bừa đến trước quầy kiểm soát. Phòng chờ chật kín người nhưng chỉ có một quầy làm việc. Một tí lại thấy có người bỏ hộ chiếu kẹp tiền lên bàn. Anh nhân viên cứ cắm cúi ghi ghi, chẳng có vẻ gì ngạc nhiên khi thấy hộ chiếu có tiền. Cứ đóng cộp xong vài dấu, anh lại quăng hộ chiếu lên quầy. Hộ chiếu của ai thì người nấy chụp rồi đi qua trạm.

“Quái thai thế không biết, hàng chục xe đến mà chỉ có một người làm! Em bỏ tiền vào, không thì chờ đến tối!”

Một chị khều lưng tôi nói làu bàu. Chẳng hiểu lơ xe của tôi có biết kẹp tiền trong hộ chiếu hay không mà đến cả tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới được lên xe vào Việt Nam. 

NXTV – Tháng mười, 2013