Menu Close

Người Chăm Châu đốc qua vài trang sách cũ – Kỳ 1

Thưa bạn,

Ai đã từng ở Châu Đốc có lẽ không ai là không biết có một làng Châu Giang bên kia sông với xóm người Chăm chiếm đa số. Dịp này, xin thử tìm lại vài trang sách cũ về cách gọi người Chăm Châu Đốc ngày xưa với hy vọng chia sẻ cùng bạn..

Trước hết, quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, bản in 1895, không có chữ Chà Và, nhưng cuốn Việt Nam Tân Tự Điển của Thanh Nghị do nhà Thời Thế xuất bản năm 1951 (Sài Gòn), định nghĩa:

“Chà (danh từ): Tiếng Chà Và nói tắt. Chà Và: Tiếng chỉ chung xứ Ấn Độ, xứ Mã Lai; người Ấn Độ, người Mã Lai, Java (Indien, Malais, Javanais) (trang 232-233).

Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ, Khai Trí xuất bản năm 1970, thì: “Chà (dt): Người ở cù lao Java thuộc Nam Dương quần đảo (Indonésia) sinh sống ở Việt Nam. Nghĩa rộng chỉ người da đen gốc ở Ấn Độ, Tân Gia Ba hay Indonésia tới sinh sống ở Việt Nam.”(trang 255. Còn “Chà Và: (dt: Người da đen gốc ở Java // Tất cả người da đen ở Ấn Độ, Mã Lai, Indonésia sinh sống ở Việt Nam” (trang 255).

Ngoài ra, còn vài quyển tự điển khác như  “Từ Điển Từ Ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, năm 2007, cũng có cùng định nghĩa tương tự như các từ điển vừa kể.

alt

Bìa sách “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng”

Theo sách Tìm Hiểu An Giang Xưa của Võ Thành Phương do nhà Văn Nghệ An Giang xuất bản năm 2004, thì nguồn gốc người Chăm Châu Đốc như sau:

“Người Chăm còn có tên gọi người Chà hay Chà Và. Người Pháp gọi là Champa. Người Campuchia gọi là Cavia, Chà và Khu (nghĩa là người đàn ông Chăm lấy vợ người Khmer).

Về nguồn gốc di dân, theo Địa chí xã Châu Giang (1961-1963): Năm 1820, một quan Thống đốc người Chăm ở Cao Miên tên Saet A Bubaca bị vua Cao Miên cho là phiến loạn nên bắt và xử tử ở Oudong. Con ông và một số người khác bị cầm tù, số còn lại trốn thoát, nhờ người Mã Lai xin triều Nguyễn cho cư ngụ ở Châu Đốc. Về sau họ trở thành “Thân binh người Chăm” cùng Trương Minh Giảng, Lê Văn Đức đến đóng quân ở Nam Vang. Sau đó rút về trú ngụ ở Khánh Bình. Sau đợt đàn áp cuộc khởi nghĩa Thất Sơn, số người Chăm được giải ngũ. Triều Nguyễn cho họ cư ngụ tại cù lao Cỏ Tầm Bon (Khánh Hòa, Châu Phú)”(trang 40).

Theo nhà văn Ngô Thế Vinh, trong cuốn “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” do nhà xuất bản Văn Nghệ (California, Hoa Kỳ) xuất bản năm 2001, thì:

“Ngược dòng lịch sử, trước những tháng ngày vương quốc Champa tiêu vong – như bắt đầu một chia lìa định mệnh, một số cộng đồng người Chăm vượt dãy Trường Sơn thoát chạy về phía tây phiêu bạt sang các nước như Cam Bốt (Kompong Cham và trên các giồng đất dọc theo con sông Mekong) và Thái Lan (Ban Khrua ở Bangkok, cố đô Ayutthya và cả một khu Chăm bên bờ sông Chao Phraya)… Khi phải lưu lạc sang Xiêm La chính người Chăm đã giúp phát triển lực lượng hải quân của vương quốc này.

Cho tới khi Chúa Nguyễn mở mang đất đai tới Châu Đốc, Thoại Ngọc Hầu được giao trọng trách đào con kinh Vĩnh Tế, thì số người Chăm ở đây được điều động và thành lập thành những đạo quân “Côn Man”. Vốn là những chiến binh giỏi họ rất đắc lực trong việc bảo vệ Thành Châu Đốc đồng thời đóng vai trò đôn đốc tám chục ngàn sưu dân Khmer và Việt Nam gian khổ ngày đêm đào con kinh Vĩnh Tế trong suốt 5 năm trường với rất nhiều tổn hại nhân mạng.

Sau khi con kinh Vĩnh Tế hoàn tất, cả triều đình Huế xem đây như thành quả to tát và để thưởng công cho đám người Chăm này, cũng vẫn vua Minh Mạng đã lại chiêu dụ cấp đất cho họ thành lập thành 7 làng Châu Giang, Phum Xoài, Lama, Katambong, Tam Hội, Bún Bình Thiên, Đồng Ko Ki (với người Chăm luôn luôn là số 7 có một ý nghĩa truyền thống lịch sử).

Sau này có thêm làng Đa Phước do dân từ Phum Xoài bên kia sông qua, chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa nên còn có tên là Cồn Tơ Lụa – Koh Kaboak.

Từ đó tới nay họ sống khá tách biệt với cộng đồng người Việt và còn giữ được một số nét bản sắc văn hóa Chăm nhưng cũng đã khác xa với đồng bào của họ nơi gốc gác quê nhà.”(trang 544).

Nhưng có lẽ, nhắc về nguồn gốc Người Chăm Châu Đốc mà không nhắc qua quyển biên khảo “Bangsa Champa, Tìm Về Với Một Cội Nguồn Cách Xa”, của hai tác giả DOHAMIDE (tên tiếng Việt là Đỗ Hải Minh) và DOROHIÊM là một thiếu sót lớn. Dịp này xin ghi lại vài điều về người Chăm Châu Đốc  được chính hai tác giả gốc người Chăm sanh ra và lớn lên ở làng Koh Ta Boong  (Châu Đốc) ghi lại:

– “Từ bên này bờ sông nhìn sang bên kia, không xa lắm, chỉ vào khoảng 50 thước là cùng, tiếng trẻ em vui đùa vẫn vọng mồn một sang bên này bờ, nhưng thực tế là hai thế giới khác biệt. Thật vậy, nhà cửa bên kia sông, thường đắp nền cao rồi dựng cột và vách lên, bên trong nhà có bàn thờ tổ tiên, bày biện bàn ghế, giường ngủ có chân cao. Hầu như trước nhà nào cũng có một bàn thờ nhỏ gọn gọi là “Bàn ông Thiên” buổi chiều khói hương nghi ngút. Bên này sông, trái lại, nhà nhà đều có sàn; cột thường bằng cây nguyên bào nhẵn, cao khỏi đầu người, mặt tiền nhà nào cũng có một cái thang rắn chắc bằng gỗ, và bên trong nhà hầu như không có bàn ghế, nên khi khách đến nhà thì chủ nhà thường trải chiếc chiếu hoặc tấm thảm, để chủ khách cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ. Nhà cửa phần lớn sát vào nhau, cả làng hầu như không có nhà nào trồng rau quả, vườn tược, nhứt là vườn trầu xanh tươi như bên kia bờ.

alt

Bìa sách “Bangsa Champa, Tìm Về Với Một Cội nguồn Cách Xa”.

Người dân bên này bờ thường vận chăn xà-rông vấn quanh mình, dài đến gót chân, bình thường gọi người dân bên đất liền là “yuôn”, và ngược lại, những người “yuôn” này lại gọi người dân bên cù lao là “Chàm”, có khi là “Chà”, và khi có chút gì không bằng lòng nhau thì gọi là… “Chà và”(trang 26)

Tác giả giải thích tiếp:

“Làng Koh Ta Boong”, được sách Việt ghi là Cỏ Đầm Bôn, từ thời Pháp thuộc xác định trên các văn kiện hành chánh là “KaTamBong”. Dịch theo tiếng Chăm, Koh nghĩa là cồn, là cù lao, còn “Ta-boong” thì là cây gậy, ngụ ý hình dáng của cù lao này giống như một cây gậy.(Trang 25)

“Koh Ta Boong”(Cỏ Đầm Bôn) là một trong bảy làng Chăm Châu Đốc. Ngoài Koh Ta Boong là làng chôn nhau cắt rún của chúng tôi, còn có 6 làng người Chăm khác là Mat Chruk tương ứng tiếng Việt là Châu Giang, Koh Kaboak là Đa Phước, Plây Kênh là Châu Phong, Plao Ba là La Ma hoặc Vĩnh Trường, Koh Ghoi hay Koh Kaghia là Bún Lớn hoặc Bún Bình Thiên, và Sabâu là Đồng Cô Kỵ…, địa thế không liền nhau, nhưng cùng nằm dọc theo hai bên bờ sông Cửu Long trải dài đến giáp giới với Kampuchea.

Phần lớn các địa danh tiếng Chăm khởi đầu bằng tiếng “Koh” có nghĩa là “cù lao”, cho thấy các làng Chăm Châu Đốc đều nằm trên các cù lao trên sông Cửu Long.”(Trang 32).

– Về việc gọi “Chà Châu Giang”, tác giả cho biết:

“Vì làng Châu Giang nằm bên kia bờ Hậu Giang đối diện với Châu Phú, tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc, nên trong dân gian, người Việt còn gọi chung người Chăm Châu Đốc là “Chà Châu Giang”. Ai cũng rõ, cách gọi này không đúng, vì Châu Giang chỉ là tên một làng bao gồm xóm dưới có Masjsid Al Azhar gắn liền với uy danh của cố Hakim Umar Aly. Vị này là người Chăm đầu tiên đã học đạo nhiều năm tại Thánh địa Mecca, A Rập Sau-Đi, về nước, đã có công đào tạo nhiều thế hệ -tức các giáo viên dạy giáo lý Islam tại các thôn ấp Chăm.(Trang 34)

Làng Châu Giang còn có một “Jam’ah” khác, thường được gọi là “xóm trên” ngăn cách với “xóm dưới” al-Azhar bằng một xóm người Việt. Jam’ah xóm trên này mang tên Mubarak với một masjid cùng mang tên Mubarak, bao gồm phần lớn người Java Ku một thời gắn bó với cội nguồn Mã Lai và gắn liền với tên tuổi của cố Hakim al-Haji Idriss, cũng như Hakim al-Haji Umar Aly, là một vị có tiếng uyên thâm giáo lý Islam, nguyên đã trải qua nhiều năm học đạo tại Malaysia (cũng đã qua đời năm 2002). Khi nói đến Jam’ah Mubarak, người ta liên tưởng ngay đến một giáo đường nằm ngay bến phà từ bên kia bờ (đối diện) thị xã Châu Phú.”(Trang 35)