Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên. Ông sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định. Học Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, có ghi danh theo học Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ban văn chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở. Ông bắt đầu có thơ đăng tuần báo Đời Mới (thập niên 1950) trước khi xuất hiện và nổi tiếng trên tạp chí Sáng Tạo. Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng là những người nòng cốt của nhóm Sáng Tạo, một nhóm sáng tác từng biết đến với phong trào khai sinh Thơ Tự Do trên văn đàn Miền Nam vào thập niên1960. Cuối năm 1963 ông nhập ngũ, phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị. Chức vụ cuối cùng là Thiếu tá, trưởng phòng Văn nghệ Cục Tâm Lý Chiến. Sau 30/4/1975, ông bị nhà cầm quyền cầm tù 3 lần, tổng cộng gần 13 năm. Cuối năm 1993 cùng gia đình sang Mỹ định cư. Hiện nay ông đang ở Houston, tiểu bang Texas.
Tác phẩm Tô Thùy Yên gồm có:
– Thơ Tuyển Tô Thùy Yên (1995)
– Thắp Tạ (2004)
Thơ Tô Thùy Yên có nhiều bài có thể gọi là tuyệt bút: Đãng Tử, Chia tay ải Tây, Chiều trên phá Tam Giang, Góa phụ, Trường Sa Hành…

Tô Thùy Yên và Đinh Cường tại quán La Madeleine Houston, TX
Sau đây là ý kiến của một vài nhà phê bình về bài Trường Sa Hành
“Trường Sa hành” là một dấu mốc đặc biệt, khắc họa nhân dáng Tô Thùy Yên trong tư tưởng, ngôn ngữ đặc thù của riêng ông, đồng thời, cho thấy được cái nhìn vào nhân giới và nhiên giới của nhà thơ và những khắc khoải siêu hình của ông. Cùng với chùm thơ “Quỷ xướng thi”, gồm ba bài thơ bảy chữ nhiều đoạn, “Trường Sa hành” đã làm cho Tô Thùy Yên trở nên lớn lao trong thi ca. Bài thơ như một dấu ấn đóng xuống đời thơ của một thi sĩ, đã giữ mãi tên tuổi cũng như nhân dáng của Tô Thùy Yên trong lòng người đọc. Cái thế giới mà ông đã tạo nên qua bài thơ này cứ như một vệt lân tinh sáng mãi trong bóng đêm của trí nhớ chúng ta. Có thể ta không có ý thức về nó trong cuộc đời thường, nhưng cái vệt lân tinh lung linh và lóng lánh ánh bạc kia cứ mãi còn theo đuổi ta trong những đêm tối của trần gian. Khi ta sụp cửa lòng mình xuống để ngăn che đi những huyên náo bên ngoài, cái thế giới khốc liệt, rưng rưng biển và xanh lơ mộng kia lại bật sáng long lanh trong lòng trí ta quạnh quẽ.
(Bùi Vĩnh Phúc)
Nói về bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên, ngoài giá trị văn chương, bài thơ còn có một giá trị lịch sử đặc biệt. Bài thơ được sáng tác trong một chuyến du hành thăm đảo trong bối cảnh Hoàng Sa vừa bị Trung Cộng đánh chiếm (3/1974). TTY là một nhà thơ đầu tiên đặt chân đến Trường Sa, viết một bài thơ đầu tiên cho Trường Sa. Bài thơ có một ý nghĩa chính trị về chủ quyền lãnh thổ mà người Việt nào tha thiết với vận mệnh đất nước không thể không biết tới…
Cho tới nay, bài Trường Sa Hành là bài thơ về biển đảo hay nhất của Việt Nam. Nó ví như một viên minh châu đang chiếu lóng lánh giữa lòng dân tộc. Không cớ gì người Việt đọc Trường Sa Hành mà lại không giữ được Trường Sa.
(Nguyễn Thị Thảo An)
Bài “Trường Sa hành” có thể được xem như một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tô Thùy Yên. Tiêu biểu về thể thơ: Mặc dù Tô Thùy Yên thử nghiệm khá nhiều hình thức, từ lục bát đến tự do, nhưng thể thơ tạo nên phong cách đặc thù và thể hiện cái tài hoa cao ngất của ông, theo tôi, là thể bảy chữ: sau năm 1954, không có nhà thơ Việt Nam nào có nhiều bài thơ bảy chữ hay bằng ông.
Tiêu biểu về tư tưởng: vẫn là một cái “hữu hạn” khao khát hỏi han “Hiu Quạnh Lớn”. Tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng: Vẫn là những vật bình thường, nhưng dưới ngòi bút của ông, bao giờ cũng có vẻ gì như khốc liệt, từ “sóng thiên cổ khóc” đến “biển tang chế”, từ “đám cây bật gốc chờ tan xác” đến cảnh “trùng dương khóc trắng trời”, từ “mặt trời chiều rã rưng rưng biển” đến “vầng khói chim đen thảng thốt quần”. Tiêu biểu trong cách liên tưởng: Dùng tâm lý để đo lường khoảng cách không gian (“Bốn trăm hải lý nhớ không tới”), dùng cảnh vật trong không gian để nghĩ đến thời gian (“Thời gian kết đá mốc u tịch”), và dùng thời gian để nói đến những sự “nhỏ nhoi” và những “nỗi tả tơi”. Tiêu biểu trong ngôn ngữ: Lúc nào cũng thật nhiều hình dung từ và hình dung từ nào cũng mạnh và cũng gắt. Đảo thì “chếch choáng”, gió thì hoặc “miên man thổi” hoặc “thổi trùng điệp”, lòng thì “rách tưa”, khóc cười thì “như tự bạo hành”, mây đỏ thì đỏ đến “thảm thê”; nắng thì “chói chang như giũa”, còn ánh sáng thì “vang lừng điệu múa điên”.
Tất cả đều mang dấu ấn của Tô Thùy Yên. Không lẫn với ai khác.
(Nguyễn Hưng Quốc)