Menu Close

Thư chết của Linda Lê

inda Lê sinh năm 1963 tại Đà Lạt, sang Pháp định cư năm 1977 khi đất nước rơi vào tay Cộng Sản để lại người cha sống một mình cô đơn. Ở Pháp cô đi vào con đường viết văn và trở thành nổi tiếng. Tuy vậy, cô không nhận mình là một nhà văn Việt Nam hay nhà văn Việt Pháp. Cô tự cho mình là người xa lạ (étrangère) trong thế giới này.

Linda Lê thành danh năm 1992 với tập truyện Les Évangiles du Crime (Phúc âm tội ác). Từ đây, các tác phẩm của Linda Lê luôn luôn được đón nhận nồng nhiệt: Calomnies (Vu khống, 1993), Les Dits d’un Idiot (Lời tên khùng, 1995), và nhất là bộ ba Les Trois Parques (Ba nữ thần số mệnh, 1997), Voix (Tiếng nói, 1998)…

Trở lại với Thư Chết: Sống lưu vong tại Pháp hơn 20 năm, đến một ngày, nhân vật tôi được tin cha qua đời, cô quạnh trong căn nhà nơi ông sống vò võ một mình từ khi vợ con ra đi. Bức thư bộc lộ niềm hối hận khôn nguôi của một đứa con mãi mãi thất hứa không về bên cha như đã hẹn, lòng thương cha day dứt đến nhói tâm can. Có khi cô tưởng tượng mình đang ôm đầu cha ru trong vòng tay của mình.

“Tôi tự cho mình thời gian trong khi người không còn thời gian nữa. Chúng ta luôn tin rằng chữ ‘Quá muộn!’ sẽ không bao giờ vỗ thẳng vào mặt mình… Cha tôi có đôi môi bợt trên giường bệnh. Tôi đã không ở đó để thổi sự sống vào người” – Linda Lê viết.

Khoảnh khắc biệt ly ngày người mẹ và tác giả rời Việt Nam được tái hiện đầy đau đớn: “Ngồi trên chiếc taxi đưa tôi đi, tôi nhìn thấy người trên chiếc xe đạp, nhớn nhác… Tôi thấy cha ở một ngã tư, lấy tay ra hiệu cho tôi. Rồi thì bóng cha biến mất mãi mãi”.

Trong thư, tác giả cũng không ngại nhắc đến nguyên nhân làm cô dần quên lãng cha: đó là một người đàn ông đã có vợ mang biệt danh Nhà Xác (Morgue), y là một trí thức lang chạ và lưu manh. Linda Lê có một “niềm đam mê tầm thường” với anh ta. Trong lúc người cha mòn mỏi viết thư và chờ đợi hồi âm của con gái, cô mòn mỏi chờ đợi những lần tới thăm chớp nhoáng của Nhà Xác. Đọc thư cha, trả lời thư cha trở thành một việc nhàm chán phiền phức.

Linda Lê không ngại dằn mạnh chi tiết đó trong tác phẩm, như miết dao vào tim và xoáy sâu. Có cảm giác, người sống thấy dù có tự vấn lương tâm bao nhiêu thì cũng không đủ bù đắp cho những mất mát mà người chết đã phải chịu.

“Khi một người chết đi, chúng ta cứ lải nhải rằng người đó từng thích cái này cái kia, rằng người đó từng nói lời này lời kia, và những thứ mà người đó thích đều được chôn theo, những thứ người đó thích mang một vẻ đặc biệt, màu sắc của chúng đi vào bảo tàng: chúng trơ ra”.

Còn trong những ngày đầu năm 2014, Linda Lê “vỗ thẳng” vào mặt các độc giả quê nhà (bản tiếng Việt mới xuất bản) thực tế nghiệt ngã rằng họ có thể đánh mất người thân yêu bất cứ lúc nào bằng cách cư xử vô tâm thường ngày, đến lúc đó không cơn hối hận nào có thể cứu vãn.

Bức thư chứa đầy cảm xúc mãnh liệt này tựa như hành động quỳ gối tạ tội của người con gái bên vong linh cha. Đồng thời, ẩn chứa nỗi căm hờn dành cho người đàn ông bạc tình nơi đất khách, Nhà Xác, người mà trong suốt tác phẩm, Linda Lê đã dựng nên hình tượng hoàn toàn đối lập với người cha.

Chân thành và tha thiết, tác phẩm được đánh giá là “Giá thử hồi sinh là điều có thể thông qua việc viết, thì chắc chắn Linda Lê đã xuất sắc hoàn thành sứ mệnh điên rồ ấy”.

Thư Chết (Lettre Morte) viết cho người quá cố tức người cha vừa qua đời sau hơn 20 năm cách biệt. Lá thư giống như lời thỉnh cầu âm thầm trước vong linh người cha. Hiển hiện qua những dòng chữ không chút hoa mỹ là một khao khát mãnh liệt được giành lại, kết nối, hàn gắn thêm lần nữa. Đó là cách tác giả tự phục sinh.

Không phải ngẫu nhiên mà Baptiste Liger đã nhận định trên tờ Lire danh giá: “Thứ ngôn từ tinh khiết và năng lượng của sự tuyệt vọng nơi Linda Lê trao cho khúc độc thoại này một sức mạnh hiếm thấy, ngang ngửa Thomas Bernhard hay Stig Dagerman”. Đặt Linda Lê cạnh những bậc thầy này hiển nhiên Baptiste Liger có lý lẽ để bảo vệ danh dự ngòi bút của mình.

Như nhà phê bình văn học Czarny Norber đã nhận định: “Tuy vậy, người đọc sẽ nhầm nếu chỉ nhận ra trong Thư chết câu chuyện bệnh hoạn hay u tối. Cuốn sách tang tóc này còn là cuộc tìm kiếm một tuổi thơ đã mất, một thiên đường không bao giờ tình tứ, vốn được dệt nên bởi tình yêu giữa đứa trẻ và cha của nó”. Cuộc song thoại mà như độc thoại giữa tôi với cha tôi, giữa tôi với nhân vật Nhà Xác vừa hòa quyện như một dòng ý thức miên viễn, khó tách biệt, vừa rời rạc, ơ hờ như sống và chết chẳng hề muốn quen nhau.

Đó là nét mới mẻ, đặc sắc của tác phẩm. Nhìn sâu hơn, Thư Chết còn có một tầng ý nghĩa khác. Thông thường đã viết thư thì phải có ý định gởi đến ai đó, dù người nhận có thể là chính mình. Người nhận trong thư đã chết sau hơn 20 năm cách biệt. Mà người chết nhận thư thì chẳng khác chi người mơ hồ, không xác định, hoặc không tồn tại. Chọn đối tượng đọc thư như vậy, rõ ràng Linda Lê không đơn giản muốn viết riêng cho một người đọc cụ thể. Viết ở đây quay về thành cuộc truy vấn chính mình, nơi tình yêu trong sáng và ẩn ức tính dục sâu thẳm cùng hiện diện trong tiềm thức của người con gái. Diễn đạt vừa rõ ràng vừa sâu lắng trạng thái mâu thuẫn này rất khó khăn, phải cần đến bút pháp của cao thủ. Linda Lê rất tinh tế ở khả năng này.

Cuối cùng, như một nhà phê bình nhận định, thật khó để xếp Thư Chết vào thể loại nào, dù từng câu thì nó là văn xuôi, nhưng suốt 100 trang chẳng xuống dòng, liền một khối ngay thẳng, diện mạo chung lại nghiêng về thơ xuôi nhiều hơn. Khá mỏng manh, nhưng phải có một khí lực sung mãn và một chất thơ tự do chảy dạt dào trong nhịp chữ thì mới viết nổi Thư chết. Cho nên đâu phải ngẫu nhiên mà văn đàn Pháp ngữ, vốn hay kỳ thị chủng tộc và giới tính, lại tôn vinh Linda Lê như một tác giả bậc thầy.

Thư Chết (Lettre Morte-xuất bản ở Pháp năm 1999) do Bùi Thu Thuỷ chuyển ngữ vừa được NXB Văn Học và Nhã Nam cho ra mắt.

alt

NGUYỄN & BẠN HỮU – Tổng hợp