Trung tuần tháng 1, 2014, hội Bảo Tồn Lịch Sử Và Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt, gọi tắt là VAHF đã thực hiện một cuộc phỏng vấn với nhà truyền thông Vũ Ánh. Cuộc phỏng vấn dài hơn 2 giờ đồng hồ và khi chuyển tiếng sang chữ (transcribe) dài 21 trang.
Được tin Nhà báo Vũ Ánh vừa qua đời đột ngột tại Nam California, Trẻ xin được phổ biến một phần nội dung của bài phỏng vấn nhận được từ hội VAHF như một nén nhang trân trọng tưởng niệm người quá cố, một người suốt đời tận tụy với nghề nghiệp của mình.
Nhà báo Vũ Ánh. Hình chụp khoảng 2 tháng trước khi ông mất đột ngột vào ngày 14 tháng 3, 2014 vừa qua. Ảnh Trùng Dương
Vũ Ánh: sinh năm 1941, Từ năm 1964 làm phóng viên chiến trường, trưởng phòng Bình Luận, Chánh Sự Vụ Sở Thời sự Quốc tế và Quốc nội cho Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia cho đến 10 giờ sáng 30-4-1975.
Từng cộng tác với các nhật báo Dân Ý, Báo Đen và Sóng Thần ở Sài gòn. Sau 30-4-1975, đi tù cải tạo 13 năm. Định cư ở Mỹ theo diện HO năm 1992 và trở lại nghề báo chí và truyền thông, cộng tác với: Nhật báo Viễn Đông Kinh Tế Thời Báo (TTK), Nhật Báo Người Việt (TTK và Chủ Bút), cộng tác với nhật báo Việt Herald. Đồng sáng lập đài Văn Nghệ Truyền Thanh (VNTT), Việt Nam California Radio (VNCR) và làm việc ở đó 10 năm, cộng tác với Đài Truyền Hình SBTN, Tuần báo Sống.
Ông qua đời đột ngột vào ngày 14 tháng 3 năm 2014.
Thực hiện bởi VAHF
VAHF: Thưa ông, là một trong những nhà truyền thông của miền Nam Việt Nam trước đây, ông có thể vui lòng cho biết là ông vào nghề năm nào và được huấn luyện tại đâu ạ?
Vũ Ánh (VA): Vâng, tôi là phóng viên thuộc lớp huấn luyện đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa về truyền thanh năm 1964, cuối năm 1964 thì bước vào nghề thực sự, chương trình học thì lúc đó chưa có trường đại học về báo chí, chúng tôi phải vừa học buổi sáng, vừa làm buổi chiều, thành ra khóa tôi là huấn luyện truyền thanh đầu tiên tại Sài Gòn. Từ trước tới nay tôi cũng không nhắc nhiều. Lớp học có 12 người. Chương trình học do đài BBC kết hợp với đài phát thanh Úc và ngay cả đài VOA huấn luyện chúng tôi.
VAHF: Thưa ông, là một chứng nhân lịch sử của những ngày cuối cùng của đài phát thanh Sài Gòn, chuyện gì đã xảy ra xin ông cho biết?
VA: Tôi không chịu rời đài,những giây phút đó trong phòng tin tức vẫn có người làm, phòng truyền tín vẫn có người làm, máy điện vẫn chạy vẫn có những nhân viên phụ trách. Chỉ có những người có trách nhiệm thì lại bỏ đi nên tôi là cao cấp nhất còn lại. Tôi muốn nhắc lại là tôi đã ăn ngủ thường trực trong đài, cũng vì duy trì tiếng nói mà mình nghĩ là cần thiết. Đêm 29 khi mà máy bay CH53 di tản sứ quán, họ bay là là trên đài tôi, họ cất cánh ngay đó. Nhưng mà thực sự lúc đó tình trạng quan trọng, đấy là một điều nguy hiểm là nếu lúc đó họ chiếm đài thì số nhân viên của mình ra sao? Ít ra cũng phải có một người đứng mũi chịu sào để còn chịu trách nhiệm.
Đêm 29 cũng là đêm mà ông Dương Văn Minh tâm sự với tôi rất là dài. Thật ra lúc đó Bộ Thông tin chưa có lệnh gì cả. Bộ Thông tin lúc đó ông Tổng trưởng Lý Quý Trung và Thứ trưởng Dương Văn Ba, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu và Tổng Thống Dương Văn Minh, đó là những người làm việc cho tới giờ chót, thực sự nó hỗn loạn, người ta tìm chỗ đi, người ta bỏ hết. Riêng đài phát thanh, truyền hình, thông tấn xã còn làm việc. Hồi ký của ông đại tướng Văn Tiến Dũng do người khác viết và đã viết láo rằng “ngụy quân, nguỵ quyền đã bỏ chạy hết”. Ngay cả khi Tổng Thống Dương Văn Minh bị bắt bị giao từ Phủ Tổng Thống tới đài phát thanh Sài Gòn, thì lúc đó đài phát thanh Sài Gòn vẫn còn đang phát mà, đâu có ngừng phút nào. Tôi phải nói một chi tiết, khi ban đêm ông Dương Văn Minh gọi điện cho đài và nói chuyện với tôi, ông ấy hỏi tôi bao nhiêu tuổi? Tôi nói năm nay tôi 32 tuổi, ổng bảo còn trẻ quá sao không đi, đi đi “qua” sẽ giúp đỡ phương tiện để em đi. Tôi hỏi lại ông là tại sao lúc đó ông không đi, vì lúc đó người Mỹ yêu cầu ông Dương Văn Minh di tản.
Ngày 28 tôi có gặp ông Phó Tổng Thống Nguyễn văn Huyền. Phải nói rằng đó là một con người mà từ trước tới giờ mình ngưỡng mộ, kính trọng cũng đúng. Vì là thân một ông Phó Tổng Thống phải đi xe vào Camp David để nói chuyện với Võ Đông Giang bên phía Cộng Sản để thỏa thuận ngừng bắn hỏa tiễn vào Sài Gòn; vì ông Huyền nói rằng điều này không cần thiết, chúng tôi sẵn sàng đầu hàng. Ông Huyền ngồi chờ, vì nó không tiếp. Khi về đài phát thanh thì chánh văn phòng mới nói với tôi: anh chuẩn bị để Phó Tổng Thống nói một bài hiệu triệu. Bài đó tôi phải khóc, vì thực sự nội dung bài hiệu triệu đó ông nói rằng chúng ta không còn hy vọng gì nữa. Thế nhưng cái điều ông ấy năn nỉ là đừng xảy ra chuyện cướp bóc hay ăn cướp lẫn nhau, nên tôi nghĩ ổng là người hiểu biết thực sự. Tôi cho phát nhiều lần, vì nội dung bài đó quan trọng, ông ấy nhắc nhở mọi người phải bình tĩnh đừng có xảy ra cướp bóc, tôi nghĩ bất cứ chuyện gì mà liên quan an ninh lộn xộn như hồi Tết Mậu thân đó thì vẫn có thể xảy ra. Và khi người phi công yêu cầu ông Huyền di tản, theo báo chí tường thuật lại thì lúc đó ổng còn cái trực thăng trước đây dành cho Thủ tướng Khiêm, mọi người nói nếu ổng muốn đi thì đưa ra tàu, ổng nói: “các anh đi đi, Moa ở lại”. Và cũng có người khác nữa là cựu Tổng thống Trần Văn Hương cũng ở lại và ông cụ bị quản thúc. Những điều sau này mà tôi mới được biết là người phía mình như vậy, nhưng mà chính quyền còn thì tôi phải tuân lệnh Tổng Thống, mặc dù nhiều người nói ổng không hợp hiến, nhưng mà hợp hiến chứ sao không, Quốc hội đưa cho sao không hợp hiến? Ổng là Tổng Thống chỉ định đúng, nhưng theo tôi vẫn phải tiếp tục. Tôi nhận lệnh của người đại diện chính quyền tới giờ phút chót. Nên nhớ một điểm dư luận nói không đúng là chỉ có một bài hiệu triệu của ông Minh mà thôi. Thực ra có hai bài. Lý do. Buổi sáng 30/4 thì văn phòng bên số 7 Thống Nhất, là nơi làm việc của Tổng Thống lúc đó, đồng thời là nơi làm việc của ông Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, là Thủ tướng một ngày rưỡi, thì nói rằng Tổng Thống có cần nói một bài hiệu triệu thì bài hiệu triệu đó cũng ngắn thôi. Tôi cho một phóng viên và kỹ thuật qua thu bài hiệu triệu của ông Dương Văn Minh, tôi biết bài đó là một bài cáo chung cho chế độ rồi.
Từ trái bà Yến Tuyết, phu nhân của nhà báo Vũ Ánh đang chứng kiến buổi phỏng vấn của hội VAHF dành cho nhà báo Vũ Ánh tại quận Cam vào đầu tháng 1, 2014. Ảnh của Trùng Dương.
VAHF: Chuyện gì đã xảy ra cho ông sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 ?
VA: Tôi thì thật ra tôi không thuộc nhóm trình diện. Sau một thời gian xao động, tôi nghĩ mình phải làm gì, bạn bè rủ tôi vào một tổ chức. Tổ chức đó chưa hình thành nhưng mục tiêu là chính con trai cựu Thủ tướng nói phải đưa ông Phan Huy Quát ra nước ngoài, rồi hình thành lực lượng trong rừng, nghe lý tưởng lắm. Nhưng lúc đó, chúng tôi không thể nào biết được đó chỉ là cái bẫy “trăm hoa đua nở” của CSVN đưa ra để vét mẻ cuối cùng. Họ mở một cuộc hành quân rõ ràng, để lôi chúng tôi từ trong rừng ra. Nhiều người không dám nói ra, nhưng tôi nói ra vì tôi là nạn nhân, tôi bị bắt xong thì coi như là người chống đối. Sở dĩ tại sao tôi bị ở lâu vậy? Lý do họ hiểu tư tưởng không đầu hàng của tôi. Họ biết những người không sẵn sàng đầu hàng, nếu giữ thời gian lâu, qua khốn khổ trong tù thì khi ra tù sẽ phải im. Thứ đến mục tiêu của cải tạo, họ cố tình nhốt mọi cấp với nhau để tạo mâu thuẫn theo cái cảnh “giậu đổ bìm leo”, sự tin tưởng cấp chỉ huy cũng có sự hoài nghi. Thứ đến họ làm sao bảo đảm được khi ra khỏi tù không ai còn tập hợp với nhau. Đó là lý do ở tù lâu. Mặt khác, cũng vì trong trại khét tiếng của Việt Nam A20, tôi còn làm tờ báo chui. Chẳng may, năm 1987 có một ông cầm tờ báo chui của chúng tôi làm trong tù đi vượt biên. Ông này bị bắt giam rồi khai ra chuyện. Ông này cũng không biết rằng, sau khi khai ra thì lại bị đưa vào tù tại Z30A chờ ra tòa. Tôi còn nhớ, buổi sáng nhà văn Doãn Quốc Sỹ, chiều đến tôi. Tất cả có 3 người, chờ mãi, vì nghe nói được hớt tóc để chờ ra tòa, nhưng không thấy gì. Mãi đến 7giờ tối, họ đưa chúng tôi đến trại Phan Đăng Lưu, và đọc quyết định của viện Kiểm Sát nhân dân tối cao nói tôi “không đổi mới tư duy”, rồi lại đưa về trại cải tạo cũ. Lúc đó, tôi nghĩ họ sẽ đưa tôi về A20, tôi phản đối không đi. Sau khi họ đọc quyết định, tôi giơ tay nói cán bộ đưa tôi ra tòa tuyên án tôi sang trại khác, tôi không về A20, tôi nói thà tôi chết chứ không có về vì họ không đối xử đàng hoàng. Ông ta nói tôi đưa anh về trại Xuân Lộc, tôi bắt các anh về đây, thì tôi bảo: OK về Xuân Lộc thì tôi về, về đó tôi bị đưa vào phòng kỷ luật, và được thả năm 1988
Bà Triều Giang, Hội trưởng Hội Bảo Tồn Lịch Sử Và Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) đang phỏng vấn Nhà báo Vũ Ánh tại quận Cam vào trung tuần Tháng Giêng, 2014 vừa qua. Ảnh Trùng Dương.
VAHF: Nghe nói ông là một trong những người được viếng trại biệt giam nhiều nhất, ông có thể kể lại?
VA: Đầu tiên họ đưa ra khỏi rừng thì cho vô biệt giam tại trại B5 ở Biên Hòa, trại B5 trước đây mình dùng nhốt tù binh, nên biệt giam cũng không khác chuồng cọp bao nhiêu; cũng có hành hạ, thẩm vấn, sử dụng cái cách của Đức quốc xã.12 giờ đêm họ kêu lên chiếu đèn thẩm vấn, rồi về mới xỏ cùm vào chân; chưa kịp nằm năm phút sau lại gọi, từ đêm tới 5 giờ sáng họ muốn mình mệt mỏi để mình nói những gì họ muốn. Họ hỏi mấy ông xếp lớn giờ ở đâu? Tôi đâu có biết, nhưng tôi nói điều này là trách nhiệm của chính quyền quân quản. Sau một thời gian không khai thác được thì họ đưa về Tuy Hòa. Ở đây còn kinh khủng hơn nữa Tuy Hòa tôi ở một năm nhốt chung với một số, trong đó có nhà thơ Vũ Hoàng Chương, lúc đó cựu Thủ tướng Việt Nam là ông Phan Huy Quát, và Thủ tướng Cambodia là ông Xuân Lộc Thành. Lúc đó hai ổng ghẻ ghê lắm, ghẻ hết người, rồi những chuyện như Phan Bá Cầm, Tân Xã Hòa Hảo, Hai Tập, rồi thì Linh mục Hoàng Quỳnh, đều bị biệt giam hết. Nửa năm sau tôi cũng bị ghẻ hết, một năm sau họ cũng chả khai thác được gì chuyện tôi làm việc với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi nhận trách nhiệm tôi chống các anh, không cần hỏi tôi nhiều, họ chỉ hỏi xếp của tôi ở đâu, tôi nói: “ xếp cũ, xếp mới đi Mỹ hết rồi”. Họ không kiếm được nên họ hỏi mình, biệt giam Chí Hòa cũng vậy rồi tôi sang Hàm Tân. Sau đó khi tôi có một số hoạt động trong trại thì họ đưa vào biệt giam.
VAHF: Tổng số ông bị bao nhiêu năm biệt giam?
VA: Nếu tổng số là hơn năm năm, biệt giam bên A20 cái trại đó khét tiếng họ gọi là trại cảnh giới, vì những người cứng đầu nhất. Mấy anh trại trưởng bảo: “Những người này không thể cải tạo được.” Đại khái bên đó không có xét tha, ngoại trừ ảnh hưởng bên ngoài, ở trong đó bệnh hoạn chết thôi, bệnh hoạn không có thuốc, ăn uống không có, còn hồ sơ họ đâu có cần chuyện đó. Truyện A20 tôi đang viết hồi ký trên tờ Người Việt chương 85 còn chưa hết chuyện. Tôi nói thế này, ngay tại A20 là 5 năm rồi, cộng thêm thời gian ở trại khác khoảng 2 năm nữa.
Hơn 2 năm nữa thực sự trong biệt giam còn nghĩ tới ngày về, gia đình, thăm nuôi, gặp lại gia đình, thì dễ bệnh lắm. Nhưng điều làm tôi sống được đó là: trong trại tôi có cái nghĩa trang cho tù nhân, là đồi 2A01, anh em trong trại ra đó nằm nhiều lắm rồi khi mình chấp nhận thì mình nghĩ mình được tự do. Nên khi làm việc với họ, tôi nói thẳng, đưa tôi vào tù còn cúp không cho ăn, còn có khi ăn nhiều muối mà uống chút xíu nước thôi. Thì đó là một trong những nhục hình, thì làm sao mình sống được. Tôi không đầu hàng, những điều họ hành hạ mình. Nhờ ảnh hưởng của nước ngoài khi mà tôi được chuyển trại từ A20 về Xuân Lộc, nhờ chương trình của bà Khúc Minh Thơ lúc đó đã tranh đấu xong rồi. Lúc đó họ mới giải tỏa, họ đưa về Xuân Lộc, tôi vẫn ở Biệt giam, nhưng không khắt khe như A20.
Khi về tới Z30 A là cả quân đội mình nằm trong đó, Đại tá có tới hơn 100, 1 tướng Lê Văn Tất, tướng Cao Đài đó. Còn miền Bắc đưa về đó là về Z30 D và Z30C. Đây chỉ là một thỏa thuận. Họ đưa HO qua đây chỉ đổi lấy chương trình tìm người Mỹ mất tích ở miền Nam, và bỏ cấm vận. Tôi nghĩ CS họ nhìn ra chuyện này. Đối với tôi, sẵn sàng chấp nhận những cái xấu nhất. Trong những năm trong tù, tôi chỉ gặp mẹ tôi một lần, đi với bà xã tôi bây giờ khi tôi còn ở Chí Hòa. Trong tù tôi cũng chứng kiến một số người chết trong tù, hai vị linh mục đó rất thân với tôi, ông ấy bị suyễn nặng, tìm cách lấy được thuốc ở bên ngoài để mình chuyển giao cho ông ấy, nhưng không có. Thực ra vì tôi có người đưa cơm, anh em vẫn đôi khi vượt dây thép gai mang B1 cho tôi, vì B1 trong đó rất quan trọng, họ cho mình ăn nhiều muối mà uống ít nước nên giữ nước; không nhờ những anh em chắc tôi cũng khó sống. Tôi muốn nói đến một giai đoạn lịch sử đã qua, đối phó với Cộng sản không phải dễ dàng. Nhiều anh em qua đây nghĩ đối phó với cộng sản dễ dàng quá. Họ là một loại người rất thâm độc, làm việc rất bài bản, không bỏ sót điều nào, cần lưu ý. Tất cả mọi chuyện đều có chiến lược. Tôi có thể nói về điều tôi đã trải qua, tôi đã sống. Nhiều người hỏi tôi trải qua vậy sao không có sát khí đằng đằng? Tôi nói thẳng khi qua đây tôi lập lại cuộc sống mới, con cái tôi lớn lên ra đời làm việc đàng hoàng. Tôi có nhiệm vụ với Tổ quốc, không phải quê hương thứ hai mà là Tổ quốc sau khi sang Mỹ, tất cả những gì mình thừa hưởng là thành quả của người đi trước. Tôi không hận thù chế độ bên đó, nhưng tôi không chấp nhận. Tôi không quay về. Đất nước bên này cho tôi đủ mọi thứ, là nhà báo, tôi có cái quý giá nhất đất nước Hoa Kỳ tặng tôi, đó là tự do nên tôi làm việc theo suy nghĩ độc lập tự do của tôi. Tôi không quay lại đất nước Việt Nam vì tôi không muốn cái hận thù quay lại. Đó là lời nhiều người hỏi tôi: tại sao tự do quá đắt giá? Tôi nói: không đây là Tổ quốc của tôi, không phải bên kia đại dương nữa, nhiều người không chấp nhận, nhưng tôi nói đây là quê hương tôi.
VAHF – 01/2014