Menu Close

“Ngồi buồn gãi háng… ”

Trong lịch sử văn học, hoặc, giới hạn hơn, trong lịch sử thơ, từ xưa đến nay, có người nổi tiếng vì một sự nghiệp đồ sộ, bao gồm nhiều tác phẩm, trong đó, có một số tác phẩm xuất sắc và một số tác phẩm trung bình, nhưng ngay ở những tác phẩm trung bình, người ta vẫn thấy và vẫn nhìn nhận đó là sự trung bình của một tài năng lớn, hơn hẳn những cái lớn nhất của những tài năng trung bình.

Cũng có người chỉ nổi tiếng vì một tác phẩm, hiểu theo nghĩa là một tập thơ; lại có người nổi tiếng chủ yếu với một số bài thơ rải rác đây đó chứ không tập trung hẳn vào một tập nào: Tôi nghĩ đến trường hợp của Hàn Mặc Tử.

Rồi cũng có một số người chỉ nổi tiếng vì một bài thơ, ví dụ, trong phong trào Thơ Mới thời 1932-45, có Vũ Đình Liên với bài “Ông đồ”, Thâm Tâm với bài “Tống biệt hành”, Nguyễn Vỹ với bài “Gửi Trương Tửu”, Đoàn Phú Tứ với bài “Màu thời gian”, Nguyễn Xuân Sanh với bài “Buồn xưa”, v.v…

Một số người khác không nổi tiếng với những bài thơ mà là với những câu thơ: Tôi nghĩ đến trường hợp của Bùi Giáng ở miền Nam trước năm 1975, một người làm thơ và in thơ rất nhiều, nhưng rất khó tìm được một bài thơ nào thực sự toàn bích. Còn lại, trong trí nhớ người đọc, về thơ Bùi Giáng, trước hết là một phong cách, sau đó, là những câu thơ, có khi rất đơn giản nhưng cũng rất xuất thần.

Cuối cùng, có một số, ít hơn, nổi tiếng và còn lại với vài câu thơ, ví dụ, Tuy Lý Vương với hai câu: “Cũng phải xơi ngơi cũng phải chơi / Làm người nào phải Phật lo đời”; Bích Khê với hai câu thơ được Hoài Thanh, trong cuốn Thi nhân Việt Nam, khen là “hay vào loại bậc nhất trong thơ Việt Nam”: “Ô hay buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông”.

Nhưng dù sao, trong hai trường hợp vừa nêu, cái hay cũng nằm ở hai câu. Dường như chỉ riêng trường hợp của Trần Văn Hương là nổi tiếng chỉ với một câu thơ. Chỉ một câu mà thôi: “Ngồi buồn gãi háng dái lăn tăn.”

alt

Hình chụp năm 1964 khi ông còn làm thủ tướng VNCH – NGUỒN OPENVAUL.WGBH.ORG

Sinh năm 1902 và mất năm 1982, Trần Văn Hương là một trí thức và là một chính khách nổi tiếng ở Việt Nam, và đặc biệt, ở miền Nam. Trước năm 1945, ông là một nhà giáo từng đào tạo nhiều học trò nổi tiếng. Sau Hiệp định Geneva, ông làm Đô trưởng Sài Gòn trong chính quyền Ngô Đình Diệm. Năm 1960, cùng một số người khác, ông tuyên bố đứng về phe chống ông Diệm nên bị bắt ở tù mấy năm. Sau cuộc đảo chính năm 1963, ông lại được cử giữ chức Đô trưởng Sài Gòn. Năm 1964, ông được Phan Khắc Sửu mời làm Thủ Tướng cho đến khi bị Nguyễn Khánh đảo chính. Năm 1968, ông được Nguyễn Văn Thiệu mời làm Thủ tướng. Năm 1971, ông làm Phó Tổng Thống, và vào ngày 21 tháng 4, 1975, khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, ông lên làm Tổng Thống cho đến lúc phải nhường lại cho Dương Văn Minh (ngày 28/4/1975). Tổng cộng, ông làm Tổng Thống được 7 ngày.

Trong mấy năm ở tù dưới thời Ngô Đình Diệm, Trần Văn Hương có làm một tập thơ lấy nhan đề là Lao trung lãnh vận (Những vần thơ lạnh lẽo ở trong tù). Tôi chưa đọc tập thơ ấy. Và cũng chưa thấy ai viết phê bình một cách nghiêm chỉnh về tập thơ ấy. Chỉ biết trong tập thơ ấy có câu thơ nổi tiếng trích ở trên. Nổi tiếng đến độ, cách đây mấy tuần, nhân chuyến đi Sydney, trong một bữa ăn tối ở nhà một người bạn, khi cô chủ nhà, vốn là một diễn viên và một họa sĩ, khoe bức tranh cô mới sáng tác, trong đó, vẽ chồng của cô đang đứng trần truồng gãi háng, cả Hoàng Ngọc-Tuấn, Võ Quốc Linh, tôi và mấy người bạn khác đều buột miệng đọc to lên câu thơ trên của Trần Văn Hương. Cùng lúc.

Trước khi viết bài này, tôi vào Google, gõ câu thơ ấy lên, trong vòng 39 giây, thấy hiện lên đến trên 18,000 kết quả.

Đủ thấy câu thơ ấy nổi tiếng và phổ biến đến chừng nào.

Để lại cho đời một sự nghiệp thơ: vui; một tập thơ: vui; một bài thơ: vui; vài câu thơ: vui. Ngay cả khi để lại chỉ một câu thơ thôi: Cũng vui lắm chứ.

Sao không?

NHQ