Cõi người ta từng khẳng định mà không hề sợ sai lầm khi cho rằng: Xuyên qua mọi thời đại, tình yêu mãi mãi là chủ đề quan trọng hàng đầu trong văn học thế giới. Tác phẩm thi ca “Paradise Lost” [“Thiên Đường Đã Mất”] của đại thi hào John Milton chỉ là những chương sách dài vô vị, nếu không có những chi tiết độc đáo liên quan đến tình yêu của Adam và Eva. Cũng giống như vậy, chẳng ai nhớ Petrarca từng có những bài thơ biện minh cho tôn giáo, trong khi họ thuộc lòng các bài Sonnet trữ tình của nhà thơ này. Huyền thoại về nhà vua Arthur trong Văn Học Anh sở dĩ bền bỉ, vì không ai quên được mối tình bi thảm của Hoàng Đế Arthur và Hoàng Hậu Guinevere, cũng như sự hiện diện của Hiệp sĩ Lancelot. Trong bi kịch Antigone, nhà viết kịch lừng danh Sophocles của nền Văn Học Hy Lạp Cổ Đại, đã cho rằng: Tình yêu ngang hàng với những quy luật lớn ngự trị trên thế giới. Nữ thần Ái Tình không cần chiến đấu, cũng có thể bắt người ta làm việc theo ý muốn của nàng. Ca ngợi tình yêu cuồng nhiệt nhất, ngoài Văn Học Tây Ban Nha, phải kể đến các nhà thơ thời Phục Hưng – Renaissance của Ý Đại Lợi. Triết gia Schopenhauer nhận xét: Tình yêu biểu hiện cho ý chí sống mù quáng nhất, mãnh liệt nhất.
Tuy nhiên sẽ vô cùng khốn khổ cho các triết gia cũng như các thi hào thi bá thuở xưa, nếu họ sống vào cuối thế kỷ 20 và chứng kiến sự sụp đổ thảm hại của các ý tưởng thanh cao tao nhã, từng làm nền tảng cho thi ca và triết lý từ rất lâu đời. Cùng với những giá trị truyền thống khác, tình yêu – hiểu theo nghĩa lãng mạn cổ điển – bắt nguồn từ nền Văn Học Trung Cổ, cũng phải vẫy tay chào tạm biệt nhân sinh, hay sống vất vưởng như kẻ hành khất trong tâm hồn những người lãng mạn cuối cùng còn sót lại. Herbert Marcuse trong “Eros And Civilization” [“Tình Dục Và Văn Minh”] đã chứng minh rằng: Tình yêu, trong văn minh Phương Tây, được thực hiện như một năng lực tính dục bị ức chế mục đích, với mọi điều cấm kỵ trong xã hội và bị đàn áp dưới nhiều hình thức. Hãy thử theo dõi tình yêu trong sự phát triển của tiểu thuyết Mỹ, người ta thấy rằng: Mãi đến thời Fitzgerald tình yêu vẫn còn là tình cảm được tôn trọng và chăm sóc, vẫn xoay quanh ao ước và tuyệt vọng. Nhưng đến Hemingway thì tình yêu kiểu Fitzgerald đã thực sự vĩnh biệt thế giới văn chương Mỹ. Trong văn chương Pháp cũng vậy: Flaubert với “Madame Bovary” [“Phu Nhân Bovary ”] và Stendhal với “Le Rouge Et Le Noire” [“Đỏ Và Đen”] đều không dám coi thường ái tình. Nhưng đến Albert Camus thì chẳng còn gì; tình yêu chỉ là một cảm xúc, như bao cảm xúc khác, có điều kích thích hơn một chút – thế thôi.
Còn Văn Học Phương Đông thì sao? Những chuyện tình Phương Đông thường dư đầy nước mắt. Khoan nói đến “Hồng Lâu Mộng,” chỉ cần đọc các câu chuyện truyền kỳ thời Đường Tống, người ta cũng đã thấy khá nhiều nội dung bi thảm, như “Hoắc Tiểu Ngọc” của Tưởng Phòng hay “Vương Âu Ngọc” của Liễu Sư Toàn – những truyện tình nổi tiếng của Văn Học Trung Quốc. Trong “Kim Vân Kiều,” tác giả Thanh Tâm Tài Nhân khẳng định: “Chữ Tình là sợi dây lớn xuyên suốt theo chiều dọc, còn chữ Khổ là sợi dây lớn xuyên suốt theo chiều ngang của tác phẩm.” Nguyễn Du nói thẳng: “Tu là cội phúc, tình là dây oan.” Trong khi Xuân Diệu thở than: “Yêu là chết ở trong lòng một ít…” Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc khóc ròng trong “Hồng Lâu Mộng.” Không ai không rơi lệ, khi đọc đến đoạn mô tả cái chết của Lâm Đại Ngọc: “Hương hồn nhất lữ tùy phong tán. Sầu tự tam canh nhập mộng dao. Hương hồn một mối tan theo gió. Sầu nặng ba canh giấc mộng so.” Bài “Trường Hận Ca” nổi tiếng của Bạch Cư Dị, mô tả Đường Minh Hoàng thương xót Dương Quý Phi đến chảy máu mắt: “Quân vương yểm diện cứu bất đắc. Hồi khanh huyết lệ tương hòa lưu. Quân vương che mặt không đường cứu. Nhìn lại lệ sầu pha máu lưu.”
Truyện tình lãng mạn đầu tiên của Văn Học Việt Nam, ghi đậm dấu ấn đau khổ, phiền muộn trong tiểu thuyết “Tố Tâm” của Song An Hoàng Ngọc Phách. Nỗi niềm “hoan lạc thú, ly biệt khổ” được các nhà văn Việt Nam mô tả dưới nhiều sắc thái đa dạng. “Cung Oán Ngâm Khúc” là tình yêu trong cô độc; người cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều …“Trải vách quế gió vàng hiu hắt. Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng. Oán chi những khách tiêu phòng. Mà xui phận bạc nằm trong má đào…”, chờ đợi một đấng quân vương không bao giờ đến. “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm là tình yêu trong cơn mê sảng. Người chinh phụ bị căng thẳng giữa hai thái cực lo sợ và hy vọng. “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi. Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sĩ mấy người. Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn… Khi mơ những tiếc khi tàn. Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!” “Đoạn Trường Tân Thanh” của Nguyễn Du đầy hoài niệm, nhớ nhung, xa cách. Hiểm họa đổ ập xuống gia đình Vương Viên Ngoại và số phận của Thúy Kiều, chính là hồi ức khiến nàng không quên mối tình đầu: “Mai sau dầu có bao giờ. Đốt lò hương ấy so tơ phím này…”
Đối với Phương Tây, tình yêu là sự đam mê, cuồng nhiệt, mù quáng, được tượng trưng bằng mũi tên của Thần Cupid, con trai của Thần Venus. Cõi người ta có thể cảm nhận điều này qua tình yêu của Tristan đối với Yseult; tình yêu của Samson đối với Delilah; tình yêu của Vua Salomon đối với Hoàng Hậu Sheba; tình yêu của Romeo đối với Juliet; tình yêu của Mr. Heathcliff đối với Catherine trong “Wuthering Heights”… Thần chết bay lượn trên đầu của đôi tình nhân ngay thuở ban đầu, nhưng tình yêu mạnh hơn sự chết, những người yêu nhau sẵn sàng trả giá cho khát vọng tình yêu. Quasimodo – chàng Gù của Victor Hugo – đã ôm ghì thi hài của nàng Esmeralda cùng đi vào cõi vĩnh hằng. Phương Đông cũng chấp nhận cái chết, vì đó là tột đỉnh bi kịch của tình yêu. Tuy nhiên lòng nhân ái và tính đa cảm, khiến người Phương Đông không muốn thần chết là kẻ chiến thắng cuối cùng. Họ muốn rằng: Cuộc sống hay định mệnh phải đền bù cho sự cay nghiệt đã xảy ra. Chính vì thế Thúy Kiều phải gặp lại Kim Trọng, để “tình nhân lại gặp tình nhân, hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.” Hạnh phúc dù chỉ là sự hứa hẹn, cũng sẽ đến sau những ngày tháng phong trần đau khổ. Nguyễn Du khẳng định “Trời còn để đó hôm nay. Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.” Kết thúc trong niềm hy vọng, nên “Câu vui đổi với câu sầu. Rượu mời cùng kể trước sau mọi lời” trong “Chinh Phụ Ngâm Khúc.” Ngay cả nàng cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng gắng gượng… “phòng khi động đến cửu trùng, giữ sao cho được má hồng như xưa.” Quang Dũng thì mơ tưởng… “Bao giờ tôi gặp em lần nữa. Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa. Đã hết sắc màu chinh chiến cũ. Em có bao giờ em nhớ ta?” [*]
Chính niềm tin tưởng vào một ngày mai đoàn viên như nguyện, nên lời thề nguyền của những người Phương Đông khi yêu nhau luôn là lời “thệ hải minh sơn,” thậm chí mối tình có thể kéo dài đến kiếp sau hay ngàn kiếp sau, như Thúy Kiều từng cảm nhận “Tái sinh chưa dứt hương thề…” Hạnh phúc trong tình yêu Phương Đông cuối cùng phải là “Tại thiên nguyện tác ti dực điểu. Tại địa nguyện vi liên lý chi. Trên trời nguyện làm chim liền cánh. Dưới đất nguyện làm cây liền cành.” Cho dẫu “giờ biệt ly cứ đến gần từng phút,” [1] đôi tâm hồn vẫn cảm nhận “… tay trong tay đầu tựa sát bên đầu.” [1] Bởi vì “Tình yêu bảo: Thôi các ngươi đừng khóc, các ngươi sẽ đoàn viên trong mộng ngọc.” [1]
2:30am Thứ Bảy ngày 17 tháng 5 năm 2014
[*] “Đôi Bờ.” Thơ Quang Dũng
[1]. “Biệt Ly Êm Ái.” Thơ Xuân Diệu