Con tàu y tế cho những người dân biệt lập ở Siberia. Và những bác sĩ trong con tàu sắt…
Các bệnh nhân ốm yếu và những người bị thương đang chờ con tàu ở mỗi Trạm hỏa xa. Ở Khani, một ngôi làng dân số chỉ có 742 người nằm giữa đỉnh núi tuyết của dãy núi Stanovoy (thuộc miền viễn đông của Liên Xô cũ). Bệnh nhân từ những khu chung cư tụ tập gần đường ray để được điều trị y tế. Một người đàn ông bị té thang gẫy chân khi say rượu. Một cô giáo trường làng muốn đưa đứa con gái 14 tuổi đang bị chứng viêm ruột thừa hành hạ… Họ đến với đủ chứng bệnh…
Những người bệnh nhân khác đang chờ đợi giờ lên con tàu y tế Matvei Mudrov. Đây là mạch chính của sự sống – một trạm xá di động Khani với những thiết bị cơ bản, phòng chẩn bệnh cho từ 12 đến 15 bác sĩ. Được điều hành bởi Tổng Cục Đường Sắt Nga Sô, và được đặt tên một bác sĩ ở thế kỷ 19, Matvei Mudrov, người đã thiết lập hệ thống phòng mạch chính ở Nga. Toa tàu Matvei Mudrov di chuyển từ làng này sang làng khác và dừng lại trọn ngày để khám bệnh nhân. Sau đó tiếp tục chạy dọc hàng ngàn dặm dài qua các vùng Viễn Đông của Nga.
Nhân viên nghỉ giải lao sau giờ làm việc.
Khani là một trong những điển hình của một cộng đồng sống dọc theo tuyến đường sắt: Một sân đá thô bao quanh bởi năm tầng chung cư tiền chế ở trung tâm thị trấn, mà dường như phần lớn bị bỏ hoang. Những người dân ở đây không có bác sĩ phẫu thuật, không có chuyên gia, chỉ là một phòng khám nhỏ với thiết bị từ thời “Sô viết” cổ lỗ sĩ, và một bác sĩ được đào tạo thuộc chuyên ngành… nha khoa. Với những người dân ở đây, con tàu y tế Matvei Mudrov là sự mong đợi duy nhất mà họ có được.
Sáu năm trước đó, thị trấn Khani cũng chẳng có một viên cảnh sát nào. Nikolay Kolesnik, một viên cảnh sát trẻ 29 tuổi vừa được bổ nhiệm. Có một mùa Đông, Nikolay phải mang đôi giày bốt há miệng suốt cả tháng trời. Thị trấn hay những vùng lân cận thì không một tiệm bán quần áo nào, anh đã phải đi một chuyến tàu vừa đi vừa về hết 20 tiếng đồng hồ để sắm cho mình một đôi giầy tuyết mới. Đây chỉ là một bất tiện nhỏ so với cái sự tác động làm ảnh hưởng đến công việc của viên cảnh sát trẻ. Làng không có nhà tù, có nghĩa là anh không thể thực hiện việc bắt giữ những tội phạm nghiêm trọng. Anh thậm chí không thể thực thi luật say rượu gây rối. Không nhà xác hoặc một bác sĩ có điều kiện để ký giấy chứng tử. Cũng có nghĩa là xác chết phải “ráng” nằm chờ trong một cái nhà kho gạch cũ cạnh đường ray để được chuyển lên tàu lửa. Dẫu vậy, viên cảnh sát trẻ này vẫn khẳng định rằng anh thích đời sống đơn giản và yên tĩnh nơi này bởi mọi người dân địa phương đều tử tế và thân thiện.
Người dân ở Litovko chờ đợi trong thời tiết giá lạnh 5 độ F cho đến khi cánh cửa tàu y tế mở cửa lúc 9 giờ.
Con tàu trạm xá này phục vụ hàng chục ngôi làng như Khani dọc theo Baikal-Amur Mainline (BAM) được gọi tên tắt là BAM vì nó trải dài từ hồ Baikal đến sông Amur. Các BAM chạy 2,672 dặm, song song với dòng Trans-Siberian và 400 dặm về phía Bắc. Được xây dựng vào cuối những năm 1970 – nó là dự án xây dựng “vĩ đại” cuối cùng của “Sô viết” để giới thiệu cuộc chinh phục của con người với thiên nhiên, thực hiện bởi kỳ công của “kỹ thuật Sô Viết”.
Phần lớn trách nhiệm xây dựng BAM thời ấy “giao phó” cho cánh thanh niên Komsomol đã thấm nhuần tư tưởng “làm kinh tế”. Từ năm 1974 đến năm 1984 đã có 500,000 người tham gia xây dựng. Họ bị “đầu độc” bởi sự lãng mạn nơi những trại gỗ trong rừng và mức lương gấp 3 lần mức trung bình của Nga. Nhiều công nhân còn được hứa hẹn rằng sau 3 năm với BAM, họ sẽ nhận được một tấm phiếu cho một chiếc xe mới, một xa xỉ gần như “huyền thoại” vào thời điểm đó.
Một số những người tiên phong đã biết rằng thời kỳ cuối của công cuộc “thử nghiệm anh hùng” này chỉ còn tồn tại vài năm nữa. Năm 1991, khi Nga Sô sụp đổ, kéo theo các nguồn lực và sự nhiệt tình để thúc đẩy và duy trì BAM cũng biến mất theo. Vào giữa thập niên 1990, vùng này đã trở thành đói nghèo và cô lập. Nhiều người đã bỏ đi. Số ở lại trở nên già nua trong một môi trường sống không khoan nhượng. Nhiệt độ mùa Đông ở -60 độ F. Một vùng đất không tiện lợi cho xe hơi trừ các tuyến đường chính trong/ngoài đường sắt. Các làng dọc theo BAM tồn tại như một hải đảo hẻo lánh, cô lập trong môi trường hoang dã. Chẳng gì đáng ngạc nhiên khi sự tiếp cận với sự chăm sóc y tế là hạn chế.
Tàu Matvei Mudrov không được trang bị bằng những thiết bị giải phẫu, cho phép phẫu thuật; mặc dù bác sĩ có thể chẩn đoán và đề nghị một quá trình điều trị. Nhưng con tàu trạm xá này là một trong vài phương tiện y tế để tiếp xúc với con người dọc theo BAM và phần còn lại của nước Nga. Con tàu này còn cho thấy một dấu hiệu của sự tồn tại và mức độ quan tâm đến sự sống còn của người dân.
Thị trấn Berkakit được hình thành từ vài đường phố và những căn hộ tiền chế. Nó được xây dựng vào những năm 1970 như một trung tâm vận chuyển cho BAM, và đã từng có số dân cư 9,000 người. Giờ đây chỉ hơn một nửa còn lại. 9 giờ sáng, những vị bác sĩ trên toa tàu Matvei Mudrov đã bắt đầu nhìn thấy bệnh nhân xếp hàng rồng rắn dọc theo các tuyến đường ray.
Liza Bazhanove, tám tuổi, chờ đợi kết quả kiểm tra sức khỏe. Ngay cả cô bé học sinh lớp Một này cũng than phiền về sự thiếu chăm sóc sức khỏe ở làng
Chỉ là việc làm với cơ quan đường sắt để duy trì cuộc sống cho những cư dân vùng BAM, những người không có phương tiện đi lại. Đó là một hệ thống khép kín, theo cách này hay cách khác; cuộc sống vẫn nhọc nhằn như những tháng năm suy yếu của Nga. Chẳng có gì ở những nơi này. Không có trung tâm mua sắm hoặc chung cư, rạp chiếu phim đã xuất hiện 20 năm qua. Nhưng trong khi những hứa hẹn lợi ích của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do đã không đến; những đặc quyền được cung cấp bởi hệ thống Sô Viết cũng đã biến mất.
Những ngày kế tiếp thì con tàu dừng lại để khám bệnh nhân trong vùng Zolotinka, một ngôi làng đã trống phân nửa số gia cư được xây dựng trên một ngọn đồi. Kể từ khi văn phòng bán vé tại nhà ga xe lửa đóng cửa vào năm 2012, Zolotinka đã ngày càng tiêu điều. Giờ đây, những người dân muốn đi du lịch trên BAM phải lái xe 45 dặm trên một con đường không trải nhựa đến Neryungri để mua vé tàu. Thật bất tiện để đi bất cứ nơi nào. Mọi người bắt đầu bộc lộ nỗi thất vọng về sự thiếu thốn này. Các chuyến thăm bệnh của mỗi ngôi làng dọc theo BAM còn lại khoảng hai lần một năm. Và “quyền hạn” chủ yếu của nó chỉ là chẩn đoán bệnh với một phòng thí nghiệm để phân tích máu, nước tiểu, đo điện tâm đồ và điện não đồ, siêu âm và một máy x-ray. Bác sĩ thì cứ viết ra các chương trình điều trị và khuyến cáo các loại thuốc; cũng như thường xuyên với những hướng dẫn cơ bản. Giống như lời khuyên rằng cà phê hòa tan không đủ cung cấp độ ẩm để ngăn ngừa sỏi thận. Các bác sĩ trên con tàu trạm xá này thường chậm chạp trong các thủ tục hành chính, hoặc làm việc ngoài giờ với các bệnh nhân bằng thủ tục “tiền mặt” duy nhất. Tham vấn chủ yếu xảy ra trên tàu là những cuộc gọi khám riêng tại tư gia.
Các làng dọc theo BAM được xây dựng bởi những đội công tác từ các nơi khác nhau: dãy núi Ural, Georgia, St Petersburg… Làng Larba thì được hình thành bởi những người lao động từ Turkmenistan. Điểm dừng cuối của con tàu này là Mudrov Kuvykta trong thời tiết mưa xám xịt và các bác sĩ đã mệt mỏi với hành trình dài.
Komarov, 22 tuổi, một sinh viên y khoa đã ra khỏi quân đội Nga, khi anh lần đầu tiên đến đây, “Họ hỏi chúng tôi, bạn có muốn trả ơn quê hương của bạn và đến làm việc trên các tuyến đường BAM?” “Tại sao không? Cả đất nước đang xây dựng đường sắt, nhà ga, làng… và tôi muốn đi tìm một điều gì cho riêng mình.” Ông hồi tưởng lại. Mọi người lúc ấy đều sống trong một khu tạm thời của một bản xá cạnh con sông. Cái thời của chủ nghĩa lãng mạn lồng trong một đời sống thô ráp của BAM ấy đã qua. Komarov đã không còn nhớ chính xác địa điểm của những lán trại xưa kia. Hiện tại, một nhà máy gạch đỏ và kim loại rỉ rét chẳng có thể sử dụng được nữa, “Nó làm đau đớn những công sức lao động đã bỏ ra, chúng tôi đã cố gắng thực hiện một điều gì đó; và ngược lại là ngày nay, công sức của chúng tôi là chẳng cần thiết cho bất cứ ai…”
BAM giờ đây, cũng chỉ còn lại những toa tàu trạm xá vẫn còn kiên nhẫn với chút ít công ích cho con người…
Con tàu trạm xá dừng lại ở Kun, đây là vùng “thung lũng tuyết”, không có nước trong sinh hoạt của làng; chỉ còn rải rác vài gia đình cư dân ở đây.
HD