Trong trái tim của mỗi người mặc nhiên cưu mang tình yêu quê hương – một tình yêu không thể nào cắt nghĩa được nhưng rất sâu đậm. Khi còn thơ ấu, đọc qua những bài học lịch sử người dân Việt ai cũng xao xuyến và hết sức ngưỡng mộ lòng yêu nước của tiền nhân. Từ đó quê hương giống hệt vòng tay của người mẹ ân cần ôm ấp, che chở đàn con. Biên giới địa lý rào chắn chung quanh lãnh thổ chính là gia đình chung, của những người sinh ra và lớn lên trong cùng một Tổ quốc. Chiến tranh bộc phát, quê hương bị du vào định mệnh khắc nghiệt. Chiến tranh biến thị trấn, thôn trang thành vùng hỏa tuyến. Không thể kể hết những phế tích mà chiến tranh để lại trong từng khu phố, từng quận lỵ, từng xóm làng. Những nơi xưa kia là vùng định cư sầm uất, phồn thịnh, náo nhiệt, một sớm một chiều bị bom đạn phá tan thành bình địa hoang vu. Sau chính biến ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều người dân Miền Nam Việt Nam dù không muốn cũng phải bỏ quê hương ra đi. Vốn liếng tình cảm thiêng liêng của một đời người gửi gắm cho quê hương tưởng như chỉ còn trong hoài niệm, bất ngờ hiển hiện trong tâm hồn khi nghe tiếng chửi của bà Hương giáo Hải, “ngọt như tiếng ca của mấy cô danh ca Ba Bé, Tư Sạn trong dĩa hát Asia…”
Bìa tác phẩm “Quê Hương Vụn Vỡ”
“Cao cao chi tổ, viễn viễn chi tông, thúc bá đệ huynh, cô nhi tỷ muội nhà bây ra nghe tao chửi thơ nè…’ Tư bề yên lặng. ‘Sóng bủa thuyền câu lướt dập, nhà sập bìm bìm leo, đéo mẹ tổ… chó đẻ nó cũng leo theo…Tổ cha ông bà nó… chơi với khỉ, khỉ vỗ đít, chơi với con nít, con nít lờn mặt, không bằng tuổi lẻ của tao mà bây bày đặt nói ra nói vô để gia đình tao hục hặc xáo xào…
“Mỗi lần bà Hương trổ tài là mỗi lần tôi và bàn dân thiên hạ ở đây khoái chí tử: Vừa giải trí vừa đổi thay không khí nhàm chán của một nếp sống trầm trầm – trong vùng đất nhỏ bằng bụm tay lọt giữa con sông rộng – kéo dài trước đó. Sồn sồn người nhưng du dương giọng, bà Hương có tiếng chửi không khác mấy tiếng hát ru em trưa nắng, mùi mẫn như bài ca dạ cổ hoài lang từ phu tướng lên đường, đã điếu còn hơn nghe mấy con nhỏ xóm dưới kéo vuốt lên cao ngất, nhọn lểu như kim chích nhè nhẹ, nhột nhột vô tim, lăn tăn tới từng sợi dây thần kinh trên khắp cùng thân thể, mấy tiếng chót của một câu hò ruột. Nói có hơi quá, nhưng còn khoái hơn nghe trai gái mèo mỡ đối đáp trửng giỡn lúc giã gạo đêm trăng.” [1]
Cả một làng quê thoải mái cười khi nhắc đến tài chửi đầy vần điệu của bà Hương giáo Hải, của một thời sông nước bình an. Những địa danh quen thuộc như Sài Gòn, Ông Tạ, Cầu Ông Lãnh, Mỹ Tho, Tây Ninh, Bến Tre… Những nhân vật bình dân như bà Hương giáo Hải, thằng Quang, con Nhàn, con Bông, anh Bảy Nhành, Tư Chịu, Út chột, thằng Đẹt, thằng Hai Biệt Động Quân, thằng Ba du kích, con Út vượt biên… Những hình ảnh quen thuộc như chiếc xe thổ mộ, những người lính Việt Nam Cộng Hòa, những người thương phế binh điển hình là chú Tư Cụt, những tay anh chị như “thằng Tư mặt thẹo” – một kẻ bắt chó chuyên nghiệp từng tuyên bố “mỗi ngày phải đập đầu chừng một chục con thì uống rượu mới ngon…” [2] Tất cả đều được mô tả trong tuyển tập “Quê Hương Vụn Vỡ,” làm sống dậy khung cảnh của xã hội Việt Nam trước và sau năm 1975. Ai cũng biết trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, người dân lao động Miền Nam Việt Nam sống đạm bạc, tuy không giàu sang nhưng có đủ ngày ba bữa ăn. Sau năm 1975 chính thể và hoàn cảnh đất nước thay đổi, một số người dân phải bỏ xứ sở ra đi, trong đó có những quân nhân những công chức bị chế độ mới bỏ ra ngoài “biên chế,” dòm ngó kiểm soát gắt gao. Những người còn lại là sĩ quan hay công chức cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa phải đi học tập, bị đối xử nghiệt ngã, bất công; nhiều người đã chết trong những trại giam của chế độ cộng sản. Dân chúng ở thành thị cũng như thôn quê đều khốn khó vì những lần đánh tư sản, đổi tiền, trưng thu nhà đất khốc liệt; nhiều người bị bắt giam vì can tội làm dân oan khiếu kiện, rồi chết vì kiệt sức.
Tuyển tập “Quê Hương Vụn Vỡ” của Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm gồm 20 truyện ngắn viết theo thể loại hồi ký, do Viện Việt Học phát hành năm 2012 với chủ đề quê hương và dân tộc, dẫn đưa độc giả trở về thời quá khứ của Miền Nam Việt Nam bằng những câu chuyện vẫn còn ghi đậm dấu ấn trong tâm hồn tác giả. Hình ảnh những ngôi chùa thời thơ ấu, kỷ niệm về “cái cốc của sư bác,” lời giảng dạy hành phải đi đôi với hạnh nguyện Bồ Tát; âm vang của làn điệu “nói thơ ca vè”; tiếng rao bán chó, tiếng chửi thề trong khu xóm lao động…, được mô tả bằng nghệ thuật tả chân với giọng văn đặc sệt “miệt vườn” của người lục tỉnh. Câu chữ tự nhiên, nhiều chỗ sai chánh tả vì ghi lại theo lối phát âm của các nhân vật, càng khiến tình tiết của từng câu chuyện thêm chân thực, sinh động. Chẳng hạn như đoạn mô tả lò làm bánh tráng sau đây:
“Đi qua một lò làm bánh tráng, làm bún mùi chua nồng vậy mà còn dễ thở hơn đi ngang qua chỗ làm lạp xưởng, hay làm đồ lòng, ở đây ruồi vô số và mùi thịt thúi bay dính vô quần áo đi xa cả cây số mùi vẫn còn phưởng phất, ác nhứt là mùi thứ nước màu đỏ đỏ họ dùng để tẩm ướp thịt, nghe như mùi sơn ở cái trại hòm, làm mình liên tưởng đến mùi người chết để qua ngày hòm bị xì. Đi qua chỗ làm nước tương thì còn ghê hơn, thùng bọng chất tràn đầy ra tới sân, chất đen ngòm đó được sang qua sớt lại, được vô chai vô thùng, thường là không bao giờ được rửa cẩn thận hay khử trùng, tẩy uế, giòi bọ đầy đất.” [2]
Đọc xong rồi độc giả vừa thích thú vừa sợ hãi, như tận mắt chứng kiến cảnh tượng “ghê rợn” nói trên. Cách viết-như-nói và sử dụng những thuật ngữ địa phương “một lúc hèn lâu, phủi đít cái rẹt, độ chừng ăn dập bã trầu, dằn ba hột cơm chiên hồi tưng bửng sáng, quơ đại quơ đùa,” hay những hình ảnh “ông bà già cúp bình thiếc, tô cơm bự chảng, quẹt mỏ, lỗ mũi ăn trầu cái đầu xỉa thuốc,” càng làm nổi bật tâm tánh và sinh hoạt đời thường của người Miền Nam. Những từ láy như “bự xộn, lẻo lự, tòn ten, kẽo kẹt, lu lú, xa lơ xa lắc, lạ lạ, hay hay, xứ lai xứ đế ”…v.v…, trở thành tiếng nhạc đồng quê ngân dài trong “Quê Hương Vụn Vỡ.”
Bên cạnh những hồi ức về đất cũ người xưa, “Quê Hương Vụn Vỡ” còn là khúc ca thương cảm của một người cao niên, nhận biết nỗi buồn tha hương của bản thân khi đứng trên bến bờ hiu quạnh, khi chứng kiến cái chết của người thân, của bằng hữu tại đất khách quê người, khi thấy rõ những mê lầm, sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo, đã làm hại đời của người ta. Tác giả cũng vạch ra chuyện tranh chấp vùng lãnh hải ở Biển Đông, đã tạo thành “những hố chưn voi” chia cắt người Hoa và người Việt – những người từng chung sống nhiều đời. Tất cả những điều ấy đã vụn vỡ tan nát, hay chỉ là những mảnh vụn còn sót lại ở quê nhà, trong tâm hồn của tác giả và của người đọc. Nhưng cho dẫu đã lỡ mòn và tan nát, tình yêu quê hương luôn thường trú trong ký ức của những người xa quê, nhất là khi họ sống ở hải ngoại, hằng ngày phải dùng một ngôn ngữ khác để giao tiếp, không phải là “tiếng nước tôi tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi, thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, Nước ơi!” [3]
HNP
5:57 am Thứ Bảy ngày 21 tháng 6 năm 2014
[1]. Trích từ truyện ngắn “Như Nước Trong Nguồn.”
[2].Trích từ truyện ngắn “Người Đổi Chó.”
[3]. “Tình Ca” của nhạc sĩ Phạm Duy