Tác phẩm biên khảo lịch sử “Đứng Vững Ngàn Năm” của Ngô Nhân Dụng do Người Việt xuất bản năm 2013. Quyển sách dầy 471 trang, gồm 32 chương, mỗi chương có chung một chủ đề, chẳng hạn như: “Từ Văn Lang đến Đại Cồ Việt. Ý thức dân tộc. Ý thức tự chủ. Văn minh Á Đông…” . Với tiểu tựa “Nhờ đâu nước Việt vẫn còn sau ngàn năm Bắc thuộc,” [1] tác giả dẫn đưa người đọc trở về huyền sử xa xưa, nhắc nhớ truyền thuyết một mẹ trăm con – năm mươi người theo mẹ lên núi, năm mươi người theo cha xuống biển lập thành nước Văn Lang. Từ đó lời ca vang động núi rừng Vĩnh Phú. Lời ca đưa hồn non nước theo giòng hội tụ của Sông Lô, Sông Thao, Sông Đà, để triều đại Hùng Vương hòa nhập vào khí thiêng sông núi, để dòng dõi Lạc Hồng thăng hoa theo chiều dài lịch sử. Giòng hội tụ của quê cha đất tổ khơi nguồn từ ba con sông hiển hách: Sông Lô, Sông Thao, Sông Đà… Những con sông hay chính là những nhánh sông đời miên trường trôi chảy, đã cuốn hút định mệnh của mỗi một người dân Việt vào lớp sóng phế hưng của vận nước. Để rồi, như cuộc chia ly đầu tiên khởi từ ngày lập quốc của Cha Rồng Mẹ Tiên, anh em sinh cùng một bọc trăm trứng đã đi khắp bốn phương trời tìm tự do hạnh phúc, tìm môi trường thích hợp thực hiện chí nguyện riêng.

Cho dẫu phải trải qua nhiều nỗi thăng trầm dâu bể trong suốt tháng năm phiêu bồng đất khách, người Việt vẫn tồn tại nhờ ý chí tự lập tự chủ để bảo vệ tư tưởng “Nam quốc sơn hà nam đế cư,” [2] và để “đứng vững ngàn năm” như Ngô Nhân Dụng khẳng định: “Đời sống tập thể của dân Việt phải có những cơ cấu khá vững chắc làm nền tảng, thì mới có sức đề kháng trước làn sóng văn minh Trung Hoa.” [Trang 359] Cơ cấu vững chắc này bao gồm “nhiều yếu tố kinh tế, xã hội và văn hóa tạo nên sức mạnh của dân Việt, làm vốn liếng để xây dựng được ý thức dân tộc mạnh mẽ và bền bỉ. Sức mạnh của dân Việt nằm trong một mạng lưới xã hội là thôn làng (người); trên căn bản kinh tế đủ phong phú (đất); và trong những tín ngưỡng (thần) giúp người Việt thêm tin tưởng vào giá trị văn hóa của mình, tự phân biệt với các quan lại và quân lính đô hộ.” [Trang 360]
Mở đầu tác phẩm bằng chương “Đứng Vững Không Khuỵu Chân,” kết thúc với chương “Vang Vang Trời Mùa Xuân,” Ngô Nhân Dụng trước sau như một chỉ muốn khẳng định “tín ngưỡng có thể dựng nước,” chỉ muốn nói đến “những thần thánh giữ nước,” để “giang sơn từ đây nở mặt” và “may thay sinh ở nước Nam.” [1] Ngô Nhân Dụng đề cao sức mạnh của “tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi, thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, Nước ơi!”[3] Ông viết:“Chúng ta có thể tin rằng ngôn ngữ là một thứ thành trì giúp một dân tộc thoát khỏi nạn đồng hóa và giữ được độc lập.” [Trang 187]. Tổ tiên của người Việt đã “gìn giữ được một ngôn ngữ mà bây giờ con cháu vẫn dùng để làm thơ.” [Trang10].
Trong “Đứng Vững Ngàn Năm” Ngô Nhân Dụng không chỉ đưa ra luận điểm cá nhân, mà còn trích dẫn tài liệu viết bằng Tiếng Pháp của Lê Thành Khôi, Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Phúc Long [“Les Nouvelles Recherches Archéologiques au Vietnam”]…; tài liệu viết bằng Tiếng Anh của Nguyễn Quốc Trị, Keith Taylor [“The Birth of Vietnam”] …; hay của các tác giả Việt Nam như Lê Mạnh Thát, Lê Mạnh Hùng [“Nhìn Lại Sử Việt”], Trần Gia Phụng [“Việt Sử Đại Cương”]…Ông không ngại trích dẫn tài liệu có giá trị của các tác giả ở Hà Nội, như Phan Huy Lê [“Tìm Về Cội Nguồn”], Trần Từ [“Cơ Cấu Tổ Chức Của Làng Việt Cổ Truyền”]… Ông cũng dùng những tài liệu cổ có giá trị lịch sử của Phan Kế Bính, Lê Dư, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Toan Ánh, Bình Nguyên Lộc… Có thể vì muốn viết “Đứng Vững Ngàn Năm” cho lớp độc giả người Việt đang sống tại Âu Mỹ – những người đã quen với lý thuyết về sử học, di truyền học, nhân chủng học, ngôn ngữ học – nên Ngô Nhân Dụng dùng lý thuyết của sử gia người Pháp Ernest Renan, sử gia người Đức Gottfried, đối chiếu với kinh nghiệm lịch sử của tổ tiên Lạc Việt, để định nghĩa sự thành lập dân tộc và quốc gia Việt Nam, để chứng minh sự tồn tại của Việt Tộc. Ngoài những lý thuyết có từ thế kỷ 19 ở Châu Âu, trong tác phẩm “Đứng Vững Ngàn Năm” Ngô Nhân Dụng còn nói đến những lý thuyết hiện đại như “Game Theory” [“Lý Thuyết Trò Chơi”], “Soft Power” [“Quyền Lực Mềm”], vấn đề “Xã Hội Dân Sự” [“Civil Society”], “Lý Thuyết Điều Hành và Truyền Thông Đại Chúng” [ “Management and Communication Theories”]
Ngô Nhân Dụng là bút danh dùng để viết các bài xã luận của Giáo Sư Đỗ Quý Toàn. Ông còn hai bút danh khác là Vương Hữu Bột, Chân Văn. Ngoài những tác phẩm biên khảo, Giáo Sư Đỗ Quý Toàn còn là nhà văn và nhà thơ, đã xuất bản các thi tập “Nàng” (1965), “Đêm Việt Nam” (1966), “Cỏ và Tuyết” (1989), và các tác phẩm biên khảo “Yêu Con Dạy Con Nên Người Việt”(1988), “Đổi Mới Kinh Tế,” “Tìm Thơ Trong Tiếng Nói” (1992)… Tác phẩm biên khảo lịch sử “Đứng Vững Ngàn Năm” là công trình trước tác đặc biệt của Ngô Nhân Dụng. Ông đề cập đến:
– Sự hình thành ý thức dân tộc của người Việt, ngay từ thời Bắc thuộc. [Các chương 2-4].
– Sự khác biệt giữa quan niệm “Trong Đế ngoài Vương” của các vua Việt Nam và quan niệm “thiên hạ” của người Hán [Các chương 5-6]
– Sức mạnh và sự bành trướng của nền văn minh Hoa Hạ. [Các chương 7-9]
– Sự phản kháng của dân Việt dựa trên ngôn ngữ [các chương 15-17], dựa trên tín ngưỡng [các chương 18-20], và khả năng địa phương hóa tín ngưỡng (ngoại lai) dựa trên di sản Đông Nam Á ở ngã ba Á Châu. [Các chương 21-23].
– Sức mạnh của văn minh Hoa Hạ [chương 24], sức mạnh của người Phương Nam [chương 25], và sự hòa nhập giữa văn minh Hoa Hạ và bản sắc Phương Nam. [Các chương 26-27]
Một số người cho rằng muốn biết nhận định và luận điểm chính của tác phẩm “Đứng Vững Ngàn Năm,” chỉ cần đọc Chương 28. Nhưng nếu muốn hiểu rõ nguồn cội từ thời Việt Nam lập quốc, nếu muốn lãnh hội được kiến thức uyên bác mà tác giả chia sẻ qua những nhận định sâu sắc về lịch sử, về xã hội dân sự, về điều hành và truyền thông đại chúng, về quyền lực mềm, về lý thuyết trò chơi…, chắc chắn độc giả phải thong thả đọc từng trang, để hiểu vì sao Ngô Nhân Dụng lại viết:
“Nước Việt sẽ không bao giờ mất. Điều đáng lo không phải là mình còn được độc lập hay không. Đáng lo là mình chậm tiến quá, trong khi những nước chung quanh, kể cả Trung Quốc, đang tiến rất nhanh. Đáng lo hơn hết, là dù nước mình vẫn còn nhưng dân mình không phát triển, không đuổi kịp các nước chung quanh, kinh tế cũng như chính trị. Tổ tiên chúng ta giành lấy độc lập không phải để con cháu sau này chịu sống như một nước nghèo hèn thua kém mãi. Mà trong thế giới ngày nay, một quốc gia muốn ngẩng đầu lên phải phát triển. Làm sao để kinh tế nước ta có thể tiến lên ít nhất ngang hàng với các nước phát triển ở vùng Đông Nam Á; để dân mình được sống tự do như họ?”
[1]. Những chữ in nghiêng trong bài, trích từ tác phẩm “Đứng Vững Ngàn Năm.”
[2]. Trích từ bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Danh Tướng Lý Thường Kiệt.
[3]. “Tình Ca.” Nhạc phẩm của Phạm Duy.