Menu Close

Suy nghĩ Mãn Thanh – Kỳ 3

Viên Thế Khải

Trường hợp Mãn Thanh khác Nhật Bản. Giải thích thất bại của các phong trào Tự cường, Tân chính, các đề xuất Bách nhật duy tân, hay dự án Lập hiến, sử gia Pierre Renouvin đưa ra nhiều nguyên nhân: Cấu trúc xã hội Mãn Thanh xây dựng trên cơ cấu tổ chức nhà Minh không còn thích ứng một khi biên cương trải rộng, với số dân tăng gấp ba, mà số quan lại trên dưới một trăm ngàn không đủ cai quản, cũng như tính chất tự trị của các châu, tỉnh, thành và ở các đặc khu trên cả hai mặt quân sự và tài chánh đã khiến việc thi hành các đạo dụ của cung đình kém hữu hiệu. Việc chính quyền Từ Hi khó khăn kiểm thuế, không đủ ngân sách tân trang hạm đội Bắc Dương, cho thấy guồng máy trung ương vận hành ít hiệu quả.

Chung thủy với lý thuyết “Bản chất dân tộc đặt để tính chất quốc gia”, Renouvin quy kết phần lớn trách nhiệm thất bại canh tân vào bản sắc Trung Hoa:

“… Khối đông dân chúng nghi kỵ ngoại nhân, đồng thời khinh khi, tuy thừa nhận tính ưu việt kỹ thuật; dân Hán ý thức sở hữu một nền văn hiến nhiều ngàn năm của một đế quốc trung tâm từng đạt đến những thời kỳ rực rỡ mà không một nền văn minh Tây Âu nào sánh kịp. Nếu chính quyền Mãn Thanh thường xuyên ra các bố cáo gọi kiều dân phương Tây là Rợ, phải chăng vì hiểu đang thỏa mãn lòng tự kiêu của dân tộc này? Hiển nhiên ban đầu dân Nhật có cùng thái độ, chung những nghi ngại, khinh bỉ, nhưng đã nhanh chóng gạt bỏ định kiến, ít ra ở bề mặt. Nhưng dân Trung Hoa gắn bó với truyền thống cổ xưa hơn Nhật Bản, Khổng giáo đã dạy dân Hán xem thường các tiến bộ kỹ thuật vì chỉ là một hình thái vật chất tầm thường, cốt lõi của triết lý sống nằm ở khả năng gìn giữ bản thể nội tại. (…) Giai cấp quan lại phong kiến thù hằn tất cả những canh tân dưới áp lực của ngoại nhân phải thi hành ở Trung Hoa. Đây cũng là sự khác biệt bản chất với Nhật Bản mà cách mạng duy tân do giai cấp võ sĩ trung gian thực hiện. Ngược lại, giới quan lại Trung Hoa đóng kín cửa trước các tư tưởng cải cách. Nền giáo dục và học vấn khuyến khích trí thức tôn sùng truyền thống, như đã tôn sùng các bậc hiền triết. Bổng lộc cá nhân cũng đã khiến các quan chức không muốn thay đổi cơ chế; vì dưới chính quyền Mãn Thanh, viên chức hành chánh không bị giám sát hoặc thanh tra, cho phép tư lợi khá dễ dàng. Tất cả những biện pháp cải cách nhằm giúp hệ thống thêm hiệu quả đều đe dọa mối tư lợi này. Cung đình Mãn Thanh, rút cuộc, trở nên bảo thủ và thụ động.” [16](Pierre Renouvin, La stagnation de la Chine, 1947)

alt

Viên Thế Khải NGUỒN TRIEUTHANHWEEKLYMAGAZINE.COM

60 năm sau khi Câu hỏi Viễn Đông xuất bản, đọc lại chương Sự tù đọng Trung Hoa, dân Việt cảm giác đang xem những trang sử cũ triều Nguyễn. Cùng một ao tù tri thức, cùng một khước từ canh tân của giới hủ nho. Tuy nhiên, nếu phán xét của Renouvin không sai, kinh nghiệm sống thực của dân Việt cho thêm cách nhìn khác: Không phải triết lý của Khổng Tử ngăn cản duy tân. “Lòng trung quân ái quốc” xây dựng trên nhân sinh quan Khổng giáo vẫn hiện hữu tại Nhật Bản cho đến tận bây giờ và chính khái niệm này thúc đẩy dân Nhật hỗ trợ Thiên Hoàng canh tân. Khổng giáo với thang giá trị Quân, Sư, Phụ đã ứng nghiệm tuyệt vời tại Nhật. Như vậy, vì sao thất bại tại Đại Nam và Trung Hoa? Đây mới thực sự là Câu hỏi Viễn Đông.

Hình ảnh một Thái hậu Từ Hi chuyên quyền, tàn ác, hình ảnh một Hoàng đế Tự Đức, tuy nhân từ, dành nhiều thời gian chăm sóc lăng tẩm của chính mình thay vì lo việc nước đang rối ren khi thủy binh Pháp xuất hiện, đã phá hủy giá trị Quân vương. Dân Việt, cũng như dân Trung Hoa, còn khám phá kiến thức của các bậc thầy, từ đồ nho đến viện sĩ, được xem uyên thâm, tụt hậu so với phương Tây. Giá trị Sư phá sản. Còn lại Phụ, vẫn được kính trọng, vì Phụ nuôi dưỡng huyết thống, vì Phụ giữ được lòng ái quốc cho con, nhưng Phụ bất lực trước thời thế. Cả hai dân tộc Hoa – Việt đánh mất phương hướng, đánh mất mục đích phục vụ, cho ai, cho Từ Hi độc ác, hay cho vẻ đẹp nên thơ của những cánh sen hồng phấn trong hồ Lưu Khiêm của Tự Đức? Cả hai dân tộc Hoa – Việt trở nên thụ động vì thang giá trị của Khổng Tử biến mất ở hai quốc gia này.

 Thất bại canh tân của Mãn Thanh chủ yếu nằm trong chính sách phân biệt thứ hạng công dân. Kể từ khi Đại Thanh quốc chính thức thành lập, các hoàng đế Mãn Thanh thay nhau duy trì vị thế độc tôn của tộc Mãn. Lập ra Quân Cơ Xứ, cơ quan an ninh theo dõi và giám sát nhân sự. Các đề bạt, đặc cách, tuyển mộ, đều phải thông qua Quân Cơ Xứ. Quân đội Mãn Thanh cũng phân chia kỳ binh chủ lực, xây dựng trên các đội kỵ binh thuần Mãn tộc, nhận lương thảo, quân trang, lương bổng cao hơn dũng binh địa phương tuyển mộ từ lính Hán. Các chức tước quan trọng đều do tộc Mãn nắm giữ. Gần như các Hoàng đế Mãn Thanh đã theo đuổi chính sách của nhà Nguyên phân biệt Mông Cổ và Hán, tạo ra một xã hội hai giai tầng: Mãn được tin dùng, phải là Mãn mới thăng tiến quan lộ, trong lúc Hán đứng ngoài “biên chế” và bị nghi kỵ. Thừa kế truyền thống này, Thái hậu Từ Hi không đủ can đảm cải đổi chính sách, ngược lại, càng củng cố Quân Cơ Xứ, gia tăng canh chừng. Nhìn đâu, Thái hậu cũng trông thấy những thế lực thù địch đang âm mưu phản Thanh, phục Minh. Với trí thức Hán, thái hậu áp dụng chế độ kiểm duyệt mà học giả Nguyễn Hiến Lê, trong bộ Sử Trung Quốc, ghi lại tính cách triệt để: “… cái họa văn tự đời Thanh còn khiếp lắm. Sử chép trường hợp 70 người soạn bộ Minh sử, trong đó, một đoạn viết về vụ Mãn Thanh chiếm Trung Hoa có giọng ai oán chứ không vui vẻ, hăng hái, tác giả lại quên kị húy khi chép tên các vua Thanh, họ đã chết rồi, bị quật mả lên mà những người lựa, duyệt lại, chép lại bộ đó cũng bị chém vì tội phản Thanh.” [17]
Với một xã tắc đề cao duy nhất công trạng Mãn, hiển nhiên dân Hán không cảm thấy cần thiết phải canh tân, khi lợi ích của canh tân sẽ không được san sẻ đồng đều, khi công sức canh tân sẽ càng thêm củng cố chính quyền khinh dân. Trong những ngày nguy khốn, Từ Hi sẽ phải dùng đến người Hán, như đã dùng Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương là những đại Hán đã quy phục Mãn; đến khi kỳ binh Mãn Châu sau hai thế kỷ đô thị hoá, sinh sống trong các đồn lũy, giữa những tường thành ở các châu, phủ, huyện, mất đi khả năng vận động chiến, Từ Hi phải cậy quân Hán của Viên Thế Khải khiến uy lực của Mãn Thanh thêm giảm sút. Càng cho phép Hán tham chính, nắm quân đội, Mãn càng suy yếu, nên từ ý thức phải cải cách để đương đầu với phương Tây, Từ Hi co cụm để giữ quyền bính. Nếu đồng hóa là diễn biến không tránh khỏi, như đã xảy đến với Mông Cổ, Thái hậu quên mất chính sức lực Hán đã giúp hai đế chế Mông Cổ và Mãn Thanh kéo dài nhiều trăm năm. Thiếu sức Hán, các tiên đế Khang Hy, Càn Long đã không thể chinh phạt Tứ Xuyên và Tân Cương. Nhưng nếu trong quá khứ dân Hán tuân phục kỷ cương Mãn Thanh, đến cuối thế kỷ 19, các trí thức Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng đòi hỏi cải cách chính trị, cho phép toàn dân tham gia việc nước, trước mắt canh tân để chống xâm lăng, và sau nữa, đem đến bình đẳng xã hội. Hủy bỏ Tân chính, dập xóa Bách nhật duy tân, cho hành quyết Đàm Tự Đồng và các trí thức cấp tiến [18] , Từ Hi đã đặt quyền lợi của một bộ tộc thiểu số của ba triệu người Mãn Châu lên trên quyền lợi của khối đông Trung Hoa. Giọt nước tràn ly xảy đến, khi Thái hậu, thay vì sát cánh với phong trào yêu nước của các võ sinh Thiếu Lâm chống Bát quốc liên quân, đã ra lệnh cho Lý Hồng Chương đàn áp Nghĩa Hoà đoàn [19] . Kể từ đây, mãi mãi và vĩnh viễn, dân Hán thề chấm dứt với Mãn Thanh.

Thất bại canh tân nên Trung Hoa đánh mất độc lập vào tay Nhật Bản. Không canh tân nên vương triều Nguyễn từ vị trí đang cai trị đế quốc Đại Nam, xuống cấp trở thành giả vương của một xứ thuộc địa. Ngày 17 tháng 5-1886, toàn quyền Paul Bert thảo phúc trình ngay tại Huế:

“Chúng ta đã xáo trộn nghi tục của Thiên tử, bắt vua An Nam tuân thủ cung cách của chúng ta, khiến Thiên tử đánh mất khả tín trước thần dân. Ròng rã sáu tháng trời, chúng ta yêu cầu Thiên tử đến chủ tọa các yến tiệc chiêu đãi giống như quân vương An Nam chỉ làm vua trên bàn ăn. Trước cửa cung, chúng ta đặt lính gác và các trạm kiểm soát quân sự. Bên trong cung, chúng ta cho phép các gia đình viên chức Pháp cư ngụ, để nhìn thấu suốt ngai vàng. Trong một thời gian dài, Thiên tử không thể thăm dân mà không xin phép. Rồi đến các Hoàng mẫu hậu cao tuổi, mà chức năng sinh thành được kính trọng trong tập quán An Nam, đã không thể đi đâu bằng kiệu mà không có một bàn tay khiếm nhã vạch tấm màn rũ lên xem ai ngồi bên trong. (…) Chúng ta đã lập vì Thiên tử.

Quốc vương này đang bị kẻ thù kết án chịu giam lỏng và ở đợ cho chúng ta. Nếu chúng ta muốn hành xử như một kẻ bảo hộ thực sự và dùng Vua như một trung gian giữa chúng ta với dân An Nam, hẳn nhiên là phải trao cho trung gian một quyền thế tối thiểu. Và nếu Vua thiếu quyền thế vì một thói tật nào đó… chính chúng ta, kẻ bảo hộ, phải bảo vệ quyền này, cho những kính trọng tương đẳng. Dù vậy, dường như kể từ ngày 5 tháng 7-1885, trên Bộ đã ban hành, với đầy thoả mãn, những mệnh lệnh theo hướng ngược lại.” [20] (Toàn quyền Paul Bert, thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Charles de Freycinet, 1886)

Chưa khi nào, kể từ lúc An Thanh hầu Nguyễn Hoàng rời đất Bắc vào trấn thủ Thuận Hoá, rồi cầm gươm đi mở nước, các Chúa Nguyễn phải nhục nhã như vua Đồng Khánh. Vua còn như vậy, dân đốn mạt:

“Cần lao, thông minh, kỹ xảo, đất mầu mỡ, tuy vậy dân An Nam vào năm 1897 nhìn khốn khổ. Run lập cập dưới mưa gió, đưa thân cho mưa quất, dân chúng gần như trần truồng đứng trên mặt lộ, áo tơi không đủ che chắn. Trang phục đóng khố của dân An Nam màu nâu đất tiệp với nước sông. Phụ nữ che đắp cùng một thứ vải. Sự tiệp sắc với màu đất giảm thiểu phần nào vẻ nghèo khổ. Công việc làm ruộng, nhúng dưới bùn đến đầu gối, nhìn khổ cực và dơ bẩn dưới gió bấc (…) Ấn tượng đến xứ Bắc kỳ gây phiền não; bần cùng khắp nơi tuy đất cát phì nhiêu. Mất an ninh trong vùng. Dân An Nam nhìn chúng ta với đầy sợ hãi; giống một con thú đáng thương bị đánh đập, luôn khiếp sợ tánh lỗ mãng của chủ. Dân An Nam không có ánh mắt tự tin và tin tưởng.” [21] (Toàn quyền Paul Doumer, L’Indochine française, Souvenirs, 1905)

 o O o

Hôm nay, 130 năm sau khi Hoàng đế Tự Đức băng hà, dân Việt một lần nữa, đối diện với các tham vọng đế quốc. Từng là đế quốc nên dân tộc này hiểu rõ số phận của các dân tộc bị trị Phù Nam, Chiêm Thành. Dân chúng mong muốn Đảng cầm quyền có một lịch trình canh tân, với một chương trình rõ rệt cho mục đích hiện đại hóa đất nước. Những quyết định hôm nay sẽ quyết định vận mệnh của dân tộc suốt thế kỷ 21. Canh tân, không giản dị xây cất những khu đô thị cao cấp Phú Mỹ Hưng hay Thảo Điền. Canh tân trước hết là canh tân suy nghĩ. Đã đến lúc phải dẹp các biểu ngữ Bảo tồn di sản khi không biết rõ di sản còn gì, mất gì, đã đến lúc quăng bỏ khẩu hiệu Đậm đà bản sắc dân tộc vì nếu bản sắc được cho phép thuần áo dài, đồ gốm, thịt cầy, mắm tôm sẽ không đủ sức canh tân. Đã đến lúc phải thay thế ngôn ngữ Định hướng Xã hội chủ nghĩa bằng quyết tâm Duy tân phú quốc cường binh của Nhật Bản. Dân chúng muốn biết đến khi nào đất nước sẽ có chiến lược dài hạn xây dựng một nền công nghiệp nặng, tự chế tạo được vũ khí, súng đạn? Đến khi nào dân Việt chế được máy bay, đúc được tiềm thủy đỉnh? Dân Việt còn muốn biết doanh thu tổng sản lượng quốc gia, viện trợ quốc tế, vay nợ thế giới, tổng số bao nhiêu, đến khi nào trả hết, dùng cho việc gì, thất thoát ra sao, hiệu quả thế nào và ai giám sát?

 Đã hai thập niên sau khi Đổi mới mà dân chúng vẫn chưa trông thấy một chương trình canh tân thật sự. Thậm chí không có lấy một bản điều trần của một đại thần đứng trước triều đình yêu cầu canh tân, như trường hợp Nguyễn Trường Tộ. Ở đâu? Chương trình hiện đại hóa và công nghiệp nặng của Việt Nam bây giờ? Đến khi nào chính phủ mới nghĩ đến xây dựng Hạm đội Biển Đông với một tân không lực chiến thuật hữu hiệu để bảo vệ lãnh hải của tổ tiên? Đã có ai trong đương kim nội các suy nghĩ Clausewitz: “Tất cả mọi cuộc chiến tranh phải được chuẩn bị.” Đã có ai học kinh nghiệm của thủy sư Đô đốc Togo: Hình thành một hạm đội thủy chiến mất ít nhất hai mươi năm. Chuẩn bị chiến tranh không nhất thiết chiến tranh. Chuẩn bị chiến tranh để không tụt hậu một khi phải lâm chiến. Chuẩn bị để không bao giờ dân tộc này còn bị ức hiếp. Chuẩn bị để không mất thêm đất đai, biển cả, để mười năm sau, một nguyên thủ, còn có thể ngồi vào bàn đàm phán cất tiếng nói dõng dạc của một người Việt: “Chính phủ Việt Nam yêu cầu chính phủ Trung Hoa trao trả Hoàng Sa và Trường Sa trong 72 giờ, với tất cả hậu quả của một thoái thác”. Chuẩn bị, giản dị chỉ vì toà án La Haye sẽ bất lực và thế giới không can thiệp vì mối lợi to lớn Trung Quốc. Và an nguy của một dân tộc phải do chính dân tộc đó tự bảo vệ, không thể trông cậy thế giới.

Phát triển kinh tế không đồng nghĩa với canh tân. Trao đổi hàng hóa, lợi nhuận thương mãi, xuất cảng nông hải phẩm là nhu cầu thiết yếu của nhân loại. Phát triển kinh tế là động cơ tối thiểu của một quốc gia. Canh tân mới thực sự là nền tảng giúp duy trì sự phát triển, đem đến khả năng tồn tại, tự thay đổi, tự vực dậy của một quốc gia trong những điều kiện xấu nhất, mà trong điều kiện viên mãn cho phép áp đặt sự hiện diện của quốc gia khi đối mặt kẻ thù. Lịch sử còn chứng minh: Canh tân phải bắt đầu bằng canh tân chính trị. Thiếu cải cách này, cơ chế cũ sẽ khó vận hành song song với phương pháp mới. Không cải tổ chính trị, sẽ không bảo đảm với dân chúng tổ quốc sẽ không như xưa. Dân Việt sẽ đứng sau lưng chính phủ hỗ trợ cho công cuộc duy tân vĩ đại nhất trong lịch sử của dân tộc này. Tất cả chưa quá muộn. Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang là tâm huyết của tuổi trẻ.

Những ngày qua, thanh niên, sinh viên đã hét vang đường phố: Làm người ngang tàng, phải làm một người dân Nam! Những ngày qua, dân tộc này đã muốn hét vang: Hãy ngừng suy nghĩ Mãn Thanh! Ngừng đặt quyền lợi của 3 triệu đảng viên trên quyền lợi của 90 triệu dân Việt.

Trong ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà của học thuyết Khổng Tử, hôm nay Thiên thời đang thuộc về Trung Hoa, vì thế kỷ 21 là thế kỷ của Trung Hoa. Địa lợi: một khi người nông dân Việt không thể xuống tấn trên mặt biển, quốc gia này thất thế. Đảng cầm quyền chỉ còn có thể sở hữu duy nhất một điều kiện Nhân hòa.

alt
Đã đến lúc phải thay thế ngôn ngữ Định hướng Xã hội chủ nghĩa bằng quyết tâm Duy tân phú quốc cường binhNGUỒN DOANCHITHUY2012.BLOGSPOT.COM

 TV

[16]Pierre Renouvin, La question d’Extrême-Orient 1840-1940, nxb Librairie Hachette, 1947
[17]Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, viết trước 1975, đọc và sửa lại ở Long Xuyên rồi Sài Gòn 1983, xuất bản tại hải ngoại
[18]Đàm Tự Đồng, Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi), Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú trong nội các duy tân đều bị hành quyết, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu trốn thoát. – Nguyễn Hiến Lê, sđd
[19]Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn (Yi He Tuan) diễn ra từ 1899 đến 1901.
[20]Paul Isoart, Paul Bert 1886, Approches Asie n° 10, Philippe Devillers, Sđd
[21]Paul Doumer, L’Indochine française, Souvenirs, nxb Librairie Vuibert, 1905, tái bản 1930