Menu Close

Tôn Thất Đào họa sĩ bậc thầy của Huế – Kỳ 1

alt

Bến đò – Tôn Thất Đào

Họa sĩ Tôn Thất Đào: Cuộc đời & những đóng góp một thời cho nền hội họa Huế

Dạ thưa xứ Huế bây giờ
vẫn còn Núi Ngự bên bờ Sông Hương
(Bùi Giáng)

Tôi muốn viết một bài về người thầy của tôi – họa sĩ Tôn Thất Đào – đã lâu mà chưa viết được [1]. Có lẽ vì buồn quá khi nghĩ về một họa sĩ duy nhất của Huế tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Đông Dương, có nhiều công lao đóng góp cho nền giáo dục mỹ thuật Huế mà không được đãi ngộ xứng đáng. Bao nhiêu bài báo gần đây loan tin và viết về các tác phẩm còn lại của thầy đã bị hư hỏng gần hết. Thương nhất và quý nhất là người con dâu bây giờ lo toan mọi chuyện. Từ chăm sóc các bức tranh còn lại trong nhà cho tới chuyện gia đình. Hình như thầy cô có hai trai một gái. Người con trai đầu, Tôn Thất Lục học mỹ thuật dở dang và sau đó bị tai biến nằm liệt cho đến nay, là chồng của Liên Phương, người con dâu hiếm có kể trên. Tôn Thất Điều, người con trai út thì đã mất, cô con gái Tôn Nữ Như Hồng, giáo viên thì đang ở Mỹ. Họ hàng bên phía thầy ở Mỹ cũng nhiều. Ở Mỹ còn có nhiều học trò xuất thân từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, thời thầy là vị giám đốc khả kính đầu tiên, lúc trường còn nằm ở dãy nhà số 15 đường Phan Đình Phùng bên bờ sông Bến Ngự. Thời 1957 trường còn trực thuộc Viện Đại Học Huế do Linh mục Cao Văn Luận làm Viện trưởng. Sau 3 năm ở đó trường mới dời qua Đại Nội. Và hình ảnh của thầy lại luôn hiện ra trong tôi: thầy đi chiếc xe gắn máy màu đen hiệu Brigestone. Và luôn dừng lại trước hai cánh cổng sắt hẹp trước sân trường (vốn là Lầu Diên binh vệ, nằm sát cửa Hiển Nhơn), khoan thai đẩy bộ vào. Hình như sáng nào cũng đều đặn như vậy. Bóng dáng vị giám đốc con nhà hoàng tộc thật phúc hậu hiền lành…

alt

Họa sĩ Tôn Thất Đào

Tôn Thất Đào sinh ngày 15 tháng 10 năm 1910 (Canh Tuất) tại phủ Ô Hồ, làng Phú Cát – Huế. Sau năm 1975, trải qua một tuổi già nhiều khó khăn, sức yếu, mất ngày 2 tháng 9 năm 1979 (Kỷ Mão) tại Gia Hội – Huế, thọ chưa đến 70 tuổi. Ngôi mộ chôn gần chùa Sư Nữ, An Cựu – Huế. Thân phụ: cụ Tôn Thất Tu, quan chức Nam triều, tước Hồng Lê Tự Khanh dưới triều vua Thành Thái. Thân mẫu: bà Lê Thị Liên. Hiền thê: bà Lê Khắc Ngọc Đại (1918 – 2002) em gái ông Lê Khắc Tưởng, thân sinh của giáo sư Lê Khắc Phò và Lê Khắc Cầm. Nhớ năm 2000 tôi về thăm thắp cây nhang cho thầy, còn ngồi trò chuyện cùng cô trong căn nhà xưa cũ ở số 17 đường Mạc Đĩnh Chi – Gia Hội, nay là Phủ Thờ Ô Hồ. Bàn thờ thầy và một số ít tranh hiếm hoi còn lại treo từ trên cao xuống bị xuống màu vì ẩm mốc và chất lụa bị mục. Bà Trần Thị Liên Phương – con dâu trưởng – cho biết hàng năm bà có đem tranh ra phơi. Lựa ngày nắng vừa phải, bà đưa ra hiên, lật úp tranh lại trong vài chục phút rồi lại đưa  tranh vào. Cách thức do một người quen bày cho và bà không còn nhớ người đó là ai. “Có mấy bức cứ thỉnh thoảng rớt ra một mảng màu, rồi mục ra mà tui không biết cách chi để bảo vệ được”, bà Phương cho biết (Thái Lộc – Bộ tranh Tôn Thất Đào đang nguy cấp – Tuổi Trẻ – 1-4-2014). Đọc xong mà thấy nao lòng. Đem tranh ra phơi. Nhớ sao những ngày sau mưa lụt ở Huế, có chút nắng lên…

alt

Đinh Cường thắp nhang trước bàn thờ thầy Tôn Thất Đào – Gia Hội Huế năm 2000ẢNH TƯ LIỆU ĐINH CƯỜNG

Thử nhớ lại một thời sinh hoạt mỹ thuật ở Huế trước và cùng thời Tôn Thất Đào

Nhớ là trước năm 1975, tôi thường được cụ Nguyễn Khoa Phẩm đưa về thăm chùa Ba La của dòng họ Nguyễn Khoa ở Vỹ Dạ.  Ở đó tôi đã say mê nhìn ngắm hai bức chân dung thờ vẽ bằng bột màu – trông như sơn dầu – màu sắc cổ điển chín chắn, chi tiết tỉ mỉ, sau này mới biết là của họa sĩ Lê Huy Miến (1874 – 1943), vẽ chân dung ông bà Nguyễn Khoa Luận, và biết thêm ông là rể của dòng họ Nguyễn Khoa. Lê Huy Miến, nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật viết Lê Văn Miến (khi gặp họa sĩ Lê Huy Tiếp là cháu ông lần qua Mỹ ghé Virginia thăm, tôi có hỏi thì được biết những người trong gia đình đều lót chữ Huy), vốn gốc Nghệ An, theo thân phụ lúc ấy vào làm quan dưới triều Đồng Khánh. Ông được chọn gởi sang Pháp học trường thuộc địa (École Coloniale), học xong xin thi tiếp vào trường Mỹ Thuật Quốc Gia Paris (L’École Nationale des Beaux Arts de Paris), ông về nước năm 1895 vừa mới 21 tuổi. Được xem là họa sĩ Tây học đầu tiên với những tác phẩm vẽ sơn dầu xưa nhất của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại, như các bức chân dung cụ Tú Mền (1896), Bình Văn (1905)  hiện treo tại Bảo Tàng Mỹ Thuật Việt Nam.

alt

Ban Giám Đốc, Giáo Sư và sinh viên Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế 1957-1960ẢNH TƯ LIỆU THANH TRÍ

Nhắc dòng họ Nguyễn Khoa lại nhớ đến  họa sĩ Nguyễn Khoa Toàn, ông sinh năm 1899 tại Huế, không nhớ mất năm nào ở đâu, là một nhà ngoại giao và một họa sĩ tài hoa. Sống ở Pháp nhiều năm, là môn đệ của họa sĩ Jean Despujols, Giám đốc trường Fontainebleau, từng được giải thưởng về nghệ thuật trang trí ở Paris. Thời chính phủ Ngô Đình Diệm ông làm đại sứ ở Thái Lan. Ông vẽ nhiều tranh trong mọi chất liệu. Nhà phê bình mỹ thuật Pierre Faucon trong tờ báo tiếng Pháp ở Sài Gòn, Le Courrier d’Extrême – Orient, đã gọi Nguyễn Khoa Toàn, một thi sĩ tinh tế của ánh sáng…

Một hình ảnh khác mà tôi còn may mắn được gặp vào những năm 60, 70 ở Huế là cụ Tôn Thất Sa (1882 – 1980) vốn được xem như một họa sĩ cung đình, với bao nhiêu đóng góp về các mẫu họa trang trí Long Lân Quy Phụng trên các lăng tẩm, đền chùa. Bức bình phong đối diện với cổng trường Quốc Học vẫn mãi còn đó, là đồ án trang trí kiến trúc của ông đã đoạt giải nhất năm 1920. Và bao nhiêu hình vẽ rồng độc đáo của ông. Tên tuổi ông gần như gắn liền với tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Hué) trong L’Art à Hué (L’Association des Amis du Vieux Hué, 1919 ) với bài mở đầu, L. Cadière, đã ghi lời cám ơn đến Tôn Thất Sa – giáo sư Trường Kỹ Nghệ Huế (Professeur de dessin à l’École professionnelle de Hué), một trong những học trò ông là Lê Văn Tùng và Trần Văn Phềnh, cựu học sinh trường Bảo Hộ Hà Nội đã đóng góp phần minh họa cho B-A-V-H.

Ông người làng Kim Long.  Năm 1894, TTS lên 12 tuổi, cụ thân sinh là Tôn Thất Du qua đời, gửi gắm ông cho Linh mục Dangelzer, Cha Sở giáo xứ Kim Long, để được hướng dẫn học hành. Thấy TTS thông minh đặc biệt lại có năng khiếu hội họa, Linh mục Dangelzer giới thiệu TTS với Linh mục Renaud, Giám đốc chủng viện Phú Xuân Huế để được chỉ dẫn về nghệ thuật hội họa và nắn tượng. Nhờ sự chỉ dẫn tận tình của Linh mục Renaud, tài hoa của TTS ngày càng phát triển… ( Bùi Oanh Hằng – Nét Huế trong tác phẩm của họa sĩ Tôn Thất Sa – Thế Kỷ 21- California – số 175 – 176, năm 2003 )

alt

Từ trái: Mai Trung Thứ – Viễn Đệ – Tôn Thất Đào, Huế 1960ẢNH TƯ LIỆU ĐINH CƯỜNG

Cũng nên nhắc đến phòng vẽ của họa sĩ Mộng Hoa ở cửa Thượng Tứ. Bà tên thật Nguyễn Thị Phi Phụng, sinh năm 1913 tại Quảng Trị, sau năm 1975 vào Đà Nẵng và mất ở đó. Sinh trưởng trong một gia đình hội họa, ba người anh đều là họa sĩ, nhớ nhất họa sĩ Phi Hùng với  tranh bìa các bản nhạc thời đó đầy chất sương khói Huế. Hình ảnh họa sĩ Maria Mộng Hoa, tóc búi cao, áo dài lụa trắng, kính trắng ngồi trước chiếc giá vẽ cũng khích lệ không ít những thanh thiếu nữ ngang qua dừng lại và mơ mộng… biết đâu mình cũng thành họa sĩ…

Và những họa sĩ từ trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Huế, như họa sĩ Lê Yên, tốt nghiệp cùng khóa 8 (1932 – 1937) với Tôn Thất Đào. Sinh năm 1913 tại Hà Nội, mất ở Long Hải – Sài Gòn sau năm 1975. Là thầy dạy chính thức của tôi môn vẽ hình họa và sơn dầu ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế những năm 1960. Thầy vào Nam năm 1953, trước đó dạy hội họa tại trường Khải Định, Đồng Khánh và trường Trung Học Kỹ Thuật Huế. Nhiều tác phẩm của Lê Yên đã được in trong tập sách Les Écoles d’Art de l’Indochine (Hanoi – Imprimerie d’Extrême-Orient  – 1937 ) như bức bình phong sơn mài thếp vàng lớn: Lên đường – Le depart và Người bán đồ chơi cho trẻ em – La marchande de jouets – cùng với các tác phẩm của Trần Văn Cẩn và Lương Xuân Nhị…

Họa sĩ Phạm Đăng Trí cũng học qua trường Mỹ Thuật  Đông Dương (1937 – 1942). Sinh năm 1921 tại Huế, nguyên quán Gò Công, mất tháng 6 năm 1987 tại Huế. Chúng tôi có nhiều kỷ niệm với ông khi cùng dạy Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế thời Vĩnh Phối làm giám đốc từ năm 1967. Trong phân khoa lụa cùng Tôn Thất Văn, ông là giáo sư được sinh viên nể trọng, ở sự nghiêm túc và chu đáo trong việc hướng dẫn sáng tác. Bảng màu của họa sĩ được nghiên cứu rất công phu. Ông còn nghiên cứu về tỷ lệ vàng (nombre d’or) và màu pháp lam Huế. Ông đã vận dụng thành công đĩa màu ngũ sắc Huế vào các tác phẩm lụa của mình. Được giải thưởng của Quan Toàn Quyền (Le Gouverneur Général) tại Salon de 1944 cùng với Nguyễn Tư Nghiêm (hiện vẫn còn sống tại Hà Nội). Sau đó bức Người Suối Bạc (lụa, 1945) là một bức tranh nổi tiếng của ông, một bảng màu rất mới cho tranh lụa vốn đạm bạc, cũng được một giải thưởng lớn.

alt

Họa bản Tôn Thất Đào trong Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du Hội Quảng Trị xuất bản 1942

ĐC