Những năm đầu đến Mỹ, tôi ‘bái’ được nhiều sư, tuy trong tương quan xã hội, tôi là cô giáo của họ.
Hồi thập niên 90s, khi bắt đầu vào đại học Cộng đồng tại Golden West College, tôi được tuyển vào làm ở Trung tâm Luyện Viết (Writing Center) của trường, giúp đỡ các sinh viên trong những lớp liên quan đến Anh ngữ, như ngữ pháp và tập làm văn (ESL và English), cũng như những lớp mà học sinh cần viết bài luận. Hằng ngày, tôi gặp rất nhiều sinh viên, và thời đó, sinh viên Việt Nam mới tới Quận Cam cũng theo học khá đông, nhất là con cái các gia đình H.O.
Có một chị nọ, rất yêu thích môn Kiến trúc, nhưng vì qua Mỹ diện H.O. với ba mẹ, mà cả hai ông bà đều già yếu, nên chị phải đi làm toàn thời gian để chu cấp cho cả nhà. Nhiều lần tôi gặp chị ở trường, được biết chị chỉ có thể đi học một vài giờ buổi sáng một ngày nào đó trong tuần, rồi lo về đi làm ca nhì. Tôi thấy niềm ao ước của chị lao lung quá. Nó làm cho sự báo hiếu của chị lại càng trĩu nặng nghĩa tình. Giấc mơ của chị mãi theo tôi. Tôi không biết bây giờ, chị đã có được cơ hội trở thành một kiến trúc sư và làm việc trong lãnh vực mà chị thích chưa. Giá mà gia cảnh không đơn chiếc, khó khăn, chắc chị cũng đã làm được nhiều điều mới cho ngành kiến trúc. Lòng đam mê – đó là khởi điểm của tất cả những phát minh trên thế giới.
Học được một hai mùa, thì tôi lại đi làm thêm tại Trung tâm Dạy Kèm (Tutoring Center) của trường. Thật ra, tôi không có ý định đi dạy kèm. Khi tôi góp ý cho một chị bạn trong ca đoàn Hiển Linh tại nhà thờ Westminster về việc xin học kèm ở trường, chị ấy đáp tỉnh rụi, “Em dạy thì chị mới học!” Tôi hoãn binh, nói là mình không đủ tiêu chuẩn và khả năng để dạy. Chị ấy không nghe, bắt tôi dẫn lên Trung tâm. Vì muốn giúp bạn, tôi hộ tống chị lên Trung tâm Dạy Kèm, xin ghi danh cho chị và tìm người dạy thích hợp. Trung tâm lại đang cần người dạy kèm song ngữ, nhất là cho bộ môn Anh văn, nên tôi không dưng trở thành cô giáo dạy kèm trong chớp mắt. Học trò mới rất cưng tôi, thường đem theo nước mía (món tôi rất mê) và những quà vặt khác mỗi khi chị đến học với tôi cuối ngày. Sau này, tuy khó công trau dồi, nhưng tiếng Anh của chị vẫn ‘lắc lư con tàu đi,’ nên chị bảo tôi, “Chúa không công bằng! Em được hết phần tốt, không học cũng biết. Chị học hoài, cũng… mù chữ.” (Không chừng tại cô giáo bất đắc dĩ này dạy không giỏi?)
Oan uổng cho tôi quá. Tôi cũng chúi mũi cắm đầu học, mới ê a được dăm ba chữ, chứ đâu dưng mà biết tiếng Anh. Nhưng chữ nghĩa cũng có cái lạ của nó, không phải ai học cũng nhập tâm. Từ cái duyên ép uổng đó, tôi gặp nhiều sinh viên di dân, những người đã dạy cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm mà không trường lớp hay sách vở nào có thể cung cấp. Có một phụ nữ người Guatemala, ráng học tiếng Anh để hướng dẫn con cái làm bài tập về nhà. Tôi thấy bà có một nét chịu đựng vô bờ. Có hôm, bà nói, “Con gái tôi muốn mua áo đầm mới để đi prom, mà tôi bảo cháu, mình là di dân, không có khả năng sắm sửa, nhưng nó không chịu nghe!” Rồi một thời gian sau, con bà bắt đầu có ý định muốn vào đại học. Nét mặt bà rạng rỡ hẳn lên. Cả người bà toát ra một luồng sinh khí mới, đầy hoan lạc. Sao tâm tình của bà giống với tấm lòng người mẹ Việt Nam quá: tất cả vì con, vui vì con, và hy sinh cho con.
Có một vị giáo sư cao tuổi người Liên Xô, thích trò chuyện với tôi về nghệ thuật và phim ảnh. Ông chán ngấy ngữ pháp tiếng Anh, nhưng ông nói chuyện rất uyên bác, dù câu cú không tuân theo cấu trúc văn phạm. Lần nọ, tôi không dưng ‘lạc sóng,’ nói tiếng Việt với ông. Hồi lâu, thấy ông nhìn tôi chăm chú một cách lạ lùng, tôi hỏi, thì ông nói, “Hình như vừa rồi, cô không nói tiếng Anh.” Ông nhắc cho tôi nhớ, cái lịch lãm và nhẹ nhàng luôn luôn là một ngôn ngữ quốc tế không lời.
Tôi cũng có dịp dạy kèm những sinh viên Việt cao niên. Tôi còn nhớ một bác tên Đường. Bác rất chăm học, chịu khó lắng nghe, và làm các bài tập ngữ pháp một cách chăm chỉ. Bẵng hai tuần, không thấy Bác ghé, tôi vào thì nhân viên của Trung tâm đưa cho tôi mẩu tin nhắn của Bác viết, ghi số điện thoại nhà. Tôi gọi, Bác nói, “Cám ơn cháu nhiều đã giúp Bác trong thời gian qua. Bác sĩ cấm, không cho Bác đi học nữa, vì sức khỏe của Bác không tốt.” Chuyện đã gần hai mươi năm, nhưng tôi vẫn nhớ đến Bác Đường. Tôi mong – với hết lòng mình – rằng Bác Đường vẫn còn sống, và khỏe mạnh. Những năm tháng khổ sai đã đẩy người tù cải tạo đi ngược dòng thời gian – đày sức khỏe của họ đi biệt xứ, cướp ngang cả một quãng đời và chất lượng đời sống của họ. Không có sức khỏe, thì không thể sống sung mãn được. Chỉ việc cỏn con là muốn đi học tiếng Anh để hội nhập với xã hội tạm dung, mà cũng không có sức để theo, dù lòng vẫn quyết.
Cũng trong thời gian dạy kèm, tôi có một học trò nhỏ hơn tôi vài tuổi, tên Huy. Em rất muốn học cho xong để xin chuyển lên đại học bốn năm, nhưng khả năng Anh ngữ còn yếu quá, phải ở lại. Vì mỗi mùa học, mỗi sinh viên chỉ được kèm 15 tiếng trở xuống, nên khi Huy có bài, tôi lại dành thêm thời gian dạy kèm miễn phí, tuy tôi vẫn dạy em ngay tại Trung tâm trong những giờ phụ trội này. Đối với tôi, cái chữ Đức và chữ Nhân nó đẹp vô cùng, nên tôi luôn học theo hai chữ này. Nếu giúp được cho ai, tôi cho đó là cái phước của tôi. Huy là một người nhiều tình nghĩa, đã không nhận sự giúp đỡ của tôi một cách như không. Cuối khóa, Huy xin địa chỉ nhà, và đến thăm tôi một buổi chiều đầu hè, với một ổ bánh khổng lồ. Huy vốn nhỏ con, lại rất gầy, nên ổ bánh lại trông to quá khổ trong tay Huy. Huy nói:
– Cám ơn chị đã giúp em ‘qua’ được mùa này. Em được điểm A trong lớp English 100, bây giờ có thể transfer được rồi.
Tôi khá ngạc nhiên, vì biết Huy cũng không dư dả gì để đi mua một cái bánh đắt tiền như vậy để tặng tôi. Tôi chỉ ngạc nhiên vì cái bánh lớn quá, nhưng không ngạc nhiên về tấm lòng của Huy. Mà không chỉ mình Huy làm tôi ngạc nhiên. Tôi dạy thêm giờ cho Huy nhiều đến nỗi đến cuối mùa, không dưng tôi được Trung tâm gọi lên, bảo tôi trúng thưởng. Tôi đoán là vì bà Giám Đốc muốn bù đắp cho những giờ dạy kèm không ăn lương của tôi. Phần thưởng là một cái TV trắng đen cổ điển, còn mới tinh trong thùng, chưa khui, khá xinh xắn. Thấy gia đình mình – tuy chẳng giàu có gì, vì cũng mới qua Mỹ – nhưng cũng đã có TV để xem, nên tôi mang tặng cho một anh du sinh từ Việt Nam sang, theo học tại Cal State Fullerton. Tôi thông cảm với người bạn này, anh Đỗ T., vì anh phải xa vợ và hai con nhỏ để đi học – tuy là một diễm phúc ở tuổi của anh, nhưng cũng là một hy sinh lớn khi phải xa gia đình trong suốt hai năm trời.
Anh T. nói với tôi về những ấn tượng khi mới đến Hoa Kỳ. Anh bị sốc nặng. Anh đặt câu hỏi: tại sao nước mình không được như vậy? Anh nói, sự tự do ở Hoa Kỳ làm anh chao đảo, mất thăng bằng. Biết sự tự do là một cái gì to lớn vĩ đại, nhưng nó sáng quá, làm anh lóa mắt. Anh chưa dám đến gần nó. Anh muốn trấn tĩnh, rồi mới từ từ nhìn kỹ, xem tự do nó ra làm sao, hình thù thế nào. Cái nhìn của anh như một sự nhắc nhở cho tôi, để tôi không lấy sự tự do mình được hưởng ở Hoa Kỳ như một điều như không, mà như một đặc ân – đôi khi rất xa vời đối với nhiều người sống ở những nước thiếu tự do, như chính Việt Nam hiện nay.
Anh T. không có xe, nên thỉnh thoảng tôi chở giúp anh đi chợ trong khu Little Saigon, để có mắm có muối cho bữa cơm sinh viên xa nhà. Tôi hơi cổ điển, hay mủi lòng trước cảnh sinh viên xa nhà. Có lẽ vì ngày xưa, ở quê tôi Gò Công, sinh viên tốt nghiệp Trung học Trương Định xong, thì khăn gói lên Sàigòn để thi vào học đại học. Cái lịch sử di dân ngắn hạn này – đôi khi trở thành dài hạn khi sinh viên ở lại thành phố để làm việc sau khi tốt nghiệp – của cộng đồng sinh viên tại quê tôi đã khiến cho tôi có mối thông cảm này chăng? Nên tôi giúp những sinh viên xa nhà một cách tận tình, như anh T. và một vài cô du sinh từ Việt Nam khác. Những sinh viên này thường cảm động và cảm ơn tôi, nhưng tôi lại là người cần biết ơn họ, vì họ cho tôi thấy cái diễm phúc được sống gần gia đình. Tôi không ngờ vài năm sau, tôi cũng là đứa sinh viên xa nhà, thiếu mắm thiếu muối, ở thủ đô Stockholm của Thụy Điển. Ở đó, cũng có những bạn sinh viên gốc Việt hỏi han tôi, các chị các cô lớn tuổi lưu tâm đến tôi. Đến phiên tôi được nhận những sự nâng đỡ dành cho sinh viên xa nhà.