Ra khỏi thế giới tiểu thuyết, ảnh hưởng của dịch thuật còn bàng bạc khắp cuộc sống. Người Việt xa xứ khi trở về quê nhà, trông thấy tấm bảng ghi “Ga đi quốc tế Tân Sơn Nhất”, thường tự hỏi: Vì sao không viết “Phi cảng Khởi hành Quốc tế Tân Sơn Nhất”? Vì ước muốn thuần Việt, từ bỏ Hán-Việt để làm trong sáng tiếng Việt? Nhưng trong “Ga đi quốc tế Tân Sơn Nhất” chỉ có một chữ “Đi” là thuần Việt, “Ga” đã là Tây lai, còn lại là Hán-Việt.
Dân Việt không chế tạo máy bay, do vậy tất cả những từ liên quan đến không gian, phi hành, phi đạo, trạm, cảng, đều thông qua dịch thuật trước khi nhập vào kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Ở đây giới hữu trách không nên viết “Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất”, cũng không nên viết “Phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất”, vì như vậy là tự giới hạn tầm vóc của phi cảng này. Thời Pháp, ban đầu quân đội Pháp dùng chữ Piste d’envol mà dân Việt dịch là Sân bay. Về sau Tân Sơn Nhất mở rộng, quân đội Pháp dùng chữ Aérodrome, dân Việt dịch Phi trường. Cả hai đều ổn thỏa. Sau 1954, trong Nam viết Phi cảng Tân Sơn Nhất, vì sân bay này đã được quân đội Hoa Kỳ tân trang, tái kiến tạo và nâng cấp có thể xem là một Aéroport/Airport. Đột nhiên sau 1975, từ Sân bay tái xuất hiện, và rồi bây giờ là Cụm cảng Hàng không. Nếu đã là Cụm cảng thì vì sao không viết Phi cảng Khởi hành Quốc Tế Tân Sơn Nhất ở cổng vào đường bay quốc ngoại? Khi quyết định gắn bảng Ga đi quốc tế Tân Sơn Nhất, có lẽ giới chức thẩm quyền đã nghĩ đến chữ Aérogare trong tiếng Pháp, vẫn còn dùng cho đến ngày nay ở các phi trường Tây. Nhưng từ Aérogare dịch là Ga không chuẩn. Ga là ga xe lửa và dịch như vậy làm thô thiển tiếng Việt. Ở đây Aérogare phải dịch là Phi trạm, vì mỗi Phi cảng/Aéroport có nhiều Phi trạm/Aérogare, mà mỗi Phi trạm mang một chức năng khác nhau: quốc ngoại, quốc nội, khởi hành, khứ hồi, v.v…

Phi cảng Sàigòn Tân Sơn Nhất trước năm 1975
… trở thành Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất sau năm 1975
Nhiều người sẽ trách lạm dụng Hán-Việt sẽ bị Hán hóa. Câu trả lời là Không. Hán-Việt với yếu tố Việt đã không còn là phương ngữ Trung Hoa. Một sinh ngữ khác với một tử ngữ ở khả năng dung nạp các từ mới và khả năng kiến tạo nhiều từ đồng nghĩa. Sự trù phú của một ngôn ngữ còn là sự sống chưa mai một của nhiều danh từ. Chính Hán-Việt đem đến khả năng giàu có này cho Việt ngữ, ngay cả khi phải thông qua gốc Hán. Hán-Việt cho phép dân Việt không duy nhất ký âm mà còn ký nghĩa, và đứng về ngữ âm, đem đến thêm thẩm mỹ. Dân chúng chỉ có thể tiếc nuối các cơ quan truyền thông đã không tiếp tục viết Liêu Đông, Lữ Thuận khẩu, Vọng Các, Nam Vang, Vạn Tượng, Nhã Điển, Mạc Tư Khoa, Ba Lê, Bá Linh, Luân Đôn, Gia Nã Đại, Nam Dương, Tân Gia Ba, Bảo Gia Lợi, Mễ Tây Cơ, Chí Lợi, Á Căn Đình, A Phú Hãn, v.v… theo cách phiên âm của thế hệ Đào Duy Anh, hay trước nữa. Mà vì sao không viết Cựu Kim Sơn? Vì sao đổi Hòa Lan thành Hà Lan? Hòa Lan mới đúng với âm Hollande. Phiên âm Hà Lan, đến một ngày nào đó sẽ thành “Hà Nan”. Điều chắc chắn, Phi Luật Tân nghe hay hơn Phi líp pin, Á Căn Đình thẩm mỹ hơn Ác hen ti na, Nữu Ước thanh lịch hơn Niu Óc, và Hương Cảng đem đến làn hương huyền diệu của một giấc mơ viễn du.
Trở lại truyện xưa, người xưa dịch nhuyễn vô cùng. Điển hình The Godfather, bản dịch Bố già của Ngọc Thứ Lang, càng đọc càng mê, rồi đọc lại bản dịch Pháp văn Le Parrain của Jean Perrier mới thấy Ngọc Thứ Lang tài tình. Y chang giọng mafia đểu cáng, nửa khinh mạn, vừa tay anh chị, đầy cao bồi mà cũng thật văn hóa Mỹ, pha mì ống Italô dữ dằn. Dù không phải sách văn học, chỉ thuần giải trí, nhưng là sách giải trí được phiên dịch kỳ tài. Đọc lại đoạn Michael Corleone thanh toán thằng đường Thổ Sollozzo rồi quất sụm luôn viên đại úy cảnh sát Mac Closkey ngay giữa nhà hàng Ý, trong bản tiếng Việt, ở trang 161, Ngọc Thứ Lang dịch: ”Đúng lúc đó gã bồi bước tới, đứng bên chờ và Sollozzo quay mặt ra kêu thức ăn. Michael lập tức đứng lên tay trái hất bàn, tay mặt đưa khẩu súng kê sát đầu thằng đường Thổ. Phản ứng của nó đã lẹ, Michael vùng đứng lên thì nó đã né. Không kịp. Làm sao chơi lại tuổi trẻ? Michael nhấn cò. Viên đạn đi ngay màng tang và lúc chui ra phía bên kia đã phá một lỗ toang hoác. Máu, óc, xương sọ nó văng tùm lum đầy áo gã bồi. (…) Rất tỉnh táo, Michael thản nhiên đẩy tới phát nữa, nhằm giữa cái đỉnh đầu có mớ tóc bạc phất phơ.”
Không phải chuyển ngữ, Ngọc Thứ Lang không làm công việc chữ đối chữ, mà dịch-thuật. Và ở đây, những ai biết Pháp văn nhận ra tức khắc câu “Không kịp. Làm sao chơi lại tuổi trẻ?” hay hơn hẳn “Mais Michael, plus jeune, avait des réflexes plus rapides.” mà nếu dịch sát sẽ trở thành “Nhưng Michael, trẻ hơn, nên có phản xạ nhanh hơn.” Đến câu “Rất tỉnh táo, Michael thản nhiên đẩy tới phát nữa”, chữ “đẩy” sao mà hay! Ngọc Thứ Lang thay động từ Tirer/bắn bằng một chữ đẩy khơi khơi mà đầy hình dung từ.
Gần đây, một học giả Việt trên trang web cá nhân, khi giới thiệu Linda Lê, đã tâm đắc nhắc lại một câu văn xưa: “Les grands livres donnent l’impression d’avoir été écrits dans une langue étrangère.”, rồi sảng khoái khẳng quyết: “Văn hay phải được viết bằng tiếng ngoại quốc.” Người Việt sinh sống ở Pháp cảm thấy kỳ quặc, câu văn trên, của Richard Millet nhắc lại ý của Marcel Proust. Không phải một mình Millet mà Lacan cũng từng nhắc lại. Mà Proust lặp lại tư tưởng của Aristote. Mà câu văn trên không thể dịch “Những tác phẩm lớn gây ấn tượng được viết bằng ngoại ngữ.” Chữ étrangère ở đây phải dịch là Lạ lùng/stranger, thay vì foreigner. “Những tác phẩm lớn gây ấn tượng được viết bằng một ngôn ngữ lạ.” mới chính là ý của Proust.
Nhưng có thật văn hay phải viết bằng tiếng nước ngoài? Điều này khá tương đối. Aristote định nghĩa văn hay vô cùng rõ rệt:
“Phẩm chất của văn, là phải sáng sủa mà không tầm thường: mà văn trong sáng nhất là văn phối kết với các từ thông dụng, nhưng như vậy lại tầm thường: ví dụ điển hình là thơ Cléophon hay thơ Sthénélos. Văn quý tộc thoát ra khỏi sự dung tục, là văn vận dụng các từ lạ. Qua chữ “từ lạ”, tôi muốn nói từ hiếm, phép ẩn dụ, sự mở rộng và tất cả những gì tách khỏi lối viết thông thường.” (Thi ca, Aristote, Dẫn nhập, Diễn Giảng và Ghi chú của Michel Magnien, 1458a, XXII, trang 142, tủ sách Livre de Poche).
Như vậy, cách suy diễn của vị học giả Việt Nam khi trích dẫn Lacan đã xa vạn dặm tư duy ban đầu.
Dịch phản, dịch chưa sát, không quá trầm trọng vì rồi bản gốc cũng sẽ được tìm đến. Điều quan trọng là dịch giả phải trút tất cả sự say mê, niềm hân hoan vào việc tái tạo một tác phẩm qua ngôn ngữ đang chảy trong huyết quản của mình, như McPherson, dịch giả của Dương Thu Hương đã từng sống thao tác này như sống một truyện tình:
“Dịch thuật là câu chuyện riêng tư đầy mê hoặc giữa một con người với một văn bản.” (Nina McPherson)
Sức mạnh của ngôn ngữ nằm trong sức mê hoặc vượt lý trí. Sức mạnh của văn bản nằm trong khả năng quyến rũ đến tận cùng một con người.
Văn hay, phải là văn ám ảnh.