Tại Hoa Kỳ, một số người không hợp lệ để nộp đơn xin Thẻ Xanh vì họ không còn giữ diện nhập cảnh hợp lệ, hoặc họ đã làm điều gì đó bất hợp pháp, và Sở di trú yêu cầu họ phải nộp đơn I-601. Tại Việt Nam, một số người bị từ chối cấp chiếu khán (visa) trong cuộc phỏng vấn vì họ đã làm điều gì đó sai trái và Lãnh sự nói rằng họ nên nộp đơn I-601, tức đơn Yêu Cầu Miễn (Áp Dụng Sự Vi Phạm).
Trong cả hai trường hợp, đơn I-601 phải chứng minh rằng sẽ gặp những tình huống vô cùng khó khăn mang lại cho người bảo lãnh nếu đương đơn (tức người được bảo lãnh) không được cấp chiếu khán nhập cảnh hoặc không được phép xin Thẻ Xanh tại Hoa Kỳ. Người xin chiếu khán phải thể hiện cụ thể rằng sự chia cách với người thân tại Hoa Kỳ sẽ mang lại tình trạng khó khăn vô cùng cho người bảo lãnh. Hoặc, đương đơn phải cho thấy sẽ là sự khó khăn vô cùng nếu người bảo lãnh phải di chuyển về Việt Nam sống với người hôn phối hoặc con của mình.
“Sự vô cùng khó khăn” không thể định nghĩa chính xác. Sở di trú chỉ nói rằng họ đòi hỏi bằng chứng về sự khó khăn phải lớn hơn sự khó khăn bình thường. Chứng minh sự vô cùng khó khăn không dễ dàng và điều này bao gồm hai yếu tố: Điều quan trọng là phải chứng minh tại sao người bảo lãnh không thể di chuyển về Việt Nam, và tại sao sẽ gặp tình trạng vô cùng khó khăn nếu vẫn ở Hoa Kỳ nhưng không có người hôn phối bên cạnh.
Nếu chỉ nói rằng người được bảo lãnh và người bảo lãnh sẽ nhớ nhau vô cùng thì không bao giờ đủ, ngoại trừ có những bằng chứng về tâm lý cho thấy sự chia cách sẽ gây nguy hại cho người bảo lãnh. Nếu đương đơn khai báo rằng người bảo lãnh sẽ bị trầm cảm và lo âu vì sự chia cách này thì đơn I-601 phải được kèm theo những bằng chứng y khoa xác nhận tình trạng này. Không có những bằng chứng hỗ trợ từ bác sĩ thì việc khai báo này sẽ không được chấp thuận. Nói tóm lại, phải cần rất nhiều giấy tờ để thuyết phục Sở di trú về tình trạng “vô cùng khó khăn”.
Tình trạng vô cùng khó khăn có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức trong đời sống của người bảo lãnh, chẳng hạn như:
Người bảo lãnh đang có hoặc sắp có những yêu cầu điều trị chuyên khoa do sự đòi hỏi của bác sĩ hoặc vì điều kiện tinh thần và việc điều trị có chất lượng tốt không có ở Việt Nam. Hoặc, người bảo lãnh đang phải chăm sóc một người thân già cả, đau bệnh triền miên hoặc bị tàn phế nên rất cần sự săn sóc thường xuyên và tình trạng của họ rất tệ đến nỗi người bảo lãnh PHẢI sống với thân nhân này. Điều này sẽ làm cho người bảo lãnh không thể di chuyển ra hải ngoại và đưa đến việc rất cần người được bảo lãnh ở Hoa Kỳ để giúp đỡ việc săn sóc người thân này và cưu mang những trách nhiệm khác.
Có những nguyên nhân khác cũng có thể mang lại cho người bảo lãnh tình trạng vô cùng khó khăn nếu họ phải về Việt Nam sinh sống với người được bảo lãnh. Điều cần phải cho thấy là người bảo lãnh khó thể xin phép làm việc ở Việt Nam. Vì thế, người bảo lãnh không thể nào giúp cho chính mình hoặc người phối ngẫu và người bảo lãnh cũng không thể cho con cái theo học trường quốc tế ở Việt Nam. Và người bảo lãnh cũng không thể gửi tiền sang Hoa Kỳ để trang trải những phí tổn chăm sóc người thân già yếu đang ở Hoa Kỳ.
Những nguyên nhân khác có thể mang lại sự vô cùng khó khăn cho người bảo lãnh: Công việc của người bảo lãnh không thể làm ở Việt Nam, hoặc không thể kiếm đủ tiền ở Việt Nam để có thể giúp đỡ những thân nhân đang cần hỗ trợ ở Hoa Kỳ, hoặc cho con vào đại học tại Hoa Kỳ, hoặc không thể trả nợ nhà hàng tháng ở Hoa Kỳ.
Hoặc, người bảo lãnh và các con không nói tiếng Việt, không quen thuộc văn hóa, chưa từng có cơ hội hòa nhập vào dòng văn hóa trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ.
Hoặc, tình trạng y tế ở Việt Nam quá tồi tệ. Việc chăm sóc y tế đáng tin cậy chỉ có ở những y viện tư nhân rất tốn kém. Tiêu chuẩn giáo dục ở Việt Nam quá thấp và học phí của các trường quốc tế lại quá cao.
Tất cả những lý do và khai báo phải được hỗ trợ với bằng chứng cho thấy người bảo lãnh không thể tìm việc làm ở Việt Nam, cho thấy học phí cho con cái quá cao, cho thấy ngưòi thân của người bảo lãnh ở Hoa Kỳ không thể sống còn nếu không có sự hỗ trợ về tinh thần và vật chất của người bảo lãnh.
Chúng tôi có nghe câu chuyện của một đôi vợ chồng không còn cách nào thuyết phục Sở di trú về sự vô cùng khó khăn và đã từ bỏ hy vọng hồ sơ của họ được chấp thuận. Sau cùng, họ quyết định về sinh sống tại Việt Nam. Nhưng đây không bao giờ nên được xem là giải pháp tốt nhất. Điều thích hợp nhất là nên ở lại Hoa Kỳ và theo đuổi tiến trình kháng cáo với Sở di trú. Không bao giờ nên góp ý việc nên trở về nước và giải quyết vấn đề ở Việt Nam.
LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN DI DÂN
TÍNH ĐẾN THÁNG 10-2014
– IR-1, IR-2, IR-5:Vợ, con vị thành niên, cha mẹ của công dân Hoa Kỳ, luôn luôn hiệu lực
– Diện F-1: Con độc thân, trên 20 tuổi, của công dân Mỹ: Ngày 22/05/2007 (Tăng 3 tuần)
– Diện F2A: Vợ hoặc chồng và các con nhỏ của thường trú nhân: 01/02/2013 (Tăng 4 tuần)
– Diện F2B: Con độc thân, trên 20 tuổi, của thường trú nhân: Ngày 01/11/2007 (Tăng 8 tuần)
– Diện F-3: Con đã lập gia đình của công dân Mỹ. Ngày 15/12/2003 (Tăng 2 tuần)
– Diện F-4: Anh chị em của công dân Mỹ: Ngày 22/01/2002 (Tăng 3 tuần)
– Tu Sĩ-SR: Luôn luôn hiệu lực
Hỏi Đáp Di Trú
– Hỏi: Có thời gian những ngoại kiều bất hợp pháp có thể nộp tiền phạt cho Sở di trú để đơn xin Thẻ Xanh của họ được chấp thuận, thay vì phải nộp đơn xin miễn áp dụng sự vi phạm của họ. Bây giờ không còn cơ hội này nữa hay sao?
– Đáp: Đó là đạo luật 245(i). Đạo luật này cho phép những thân nhân trực hệ của công dân Hoa Kỳ có thể xin điều chỉnh diện cư trú để xin Thẻ Xanh mặc dù đã đã sống ở Hoa Kỳ bất hợp pháp. Đạo luật này không còn hiệu lực nữa. Hiện nay, những người đang sống bất hợp lệ ở Hoa Kỳ phải trở về nước của họ để xin chiếu khán di dân.
– Hỏi: Tôi là sinh viên du học với loại chiếu khán J-1 và đã kết hôn với một công dân Mỹ. Chúng tôi sắp có con. Hôn nhân và con chung của chúng tôi không thể cho phép tôi ở lại Hoa Kỳ mà không cần phải chấp hành quy định đòi hỏi phải trở về nước trong 2 năm hay sao?
– Đáp: Nếu chiếu khán loại J-1 được cấp với ghi chú đòi hỏi phải trở về nước trong 2 năm thì cuộc hôn nhân của quý vị không thể hủy bỏ quy định này được. Quý vị sẽ phải chứng minh với Sở di trú rằng quý vị, người phối ngẫu và các con sẽ gặp tình trạng vô cùng khó khăn nếu quý vị phải trở về Việt Nam trong 2 năm. Sở di trú ít khi chấp thuận những lý do của quý vị nêu ra ở trên là sự khó khăn, vì quý vị đã biết rất rõ về quy định 2 năm phải trở về sống ở quê nhà trước khi quý vị đến Hoa Kỳ.
– Hỏi: Việc kết hôn với công dân Hoa Kỳ không thể mang lại những quyền lợi đặc biệt cho những người đang sống bất hợp pháp ở Hoa Kỳ hay sao?
– Đáp: Chỉ kết hôn thì không đủ để tránh việc đòi hỏi phải rời khỏi Hoa Kỳ để xin chiếu khán di dân. Quý vị có thể nộp đơn I-601A để xin miễn áp dụng những vi phạm trước đây. Đơn I-601A sẽ dễ dàng được chấp thuận hơn sau khi quý vị đã kết hôn được một thời gian và có con chung. Sau đó, quý vị sẽ có cơ hội tốt để chứng minh sự “vô cùng khó khăn” nếu người hôn phối ngoại kiều không được cấp Thẻ Xanh.
LMH