Trích đoạn nhật ký Eine Frau in Berlin của Marta Hillers, lược dịch từ bản Pháp văn “Une femme à Berlin”, Journal 20 avril – 22 juin 1945 của Francoise Wuilmart, Nxb Gallimard 2009, với lời tựa của Hans Magnus Enzensberger và lời bạt của Kurk W. Marek. Sách dầy 394 trang. Năm 2008, đạo diễn Max Farberback quay thành phim cùng tựa do Nina Hoss thủ diễn vai chánh.

Cảnh trong phim – NGUỒN SOUNDTRACKLISTCOVERS.BLOGSPOT.COM
Thứ Hai 23 tháng 4-1945, 9 giờ sáng.
Đêm yên tĩnh lạ lùng, gần như không một tiếng pháo. Một cư dân mới xuất hiện trong hầm, chồng của một thiếu phụ bị dội bom ở Adlershof, phải tìm đến nương náu với mẹ. Người chồng bận quân phục, lén lút đến đây, một giờ sau, anh thay quần áo dân sự. Vì sao? Không ai nhắc đến chi tiết này, không ai quan tâm đến người lính vừa rã ngũ. Việc nhìn thấy một chiến binh dày dạn trận mạc trở về từ chiến tuyến, trong lồng phổi còn hô hấp sức mạnh, cho chúng tôi cảm giác an toàn.
Dường như, đối với chúng tôi chuyện đào ngũ đột nhiên trở nên tự nhiên, chúng tôi còn tin là một điều tốt lành. Tôi không thể ngăn mình nghĩ đến ba trăm người lính Sparte thời Léonidas đã chống lại quân Thermopyles và họ đã ngã gục, theo quy luật. Chúng tôi học điều này từ trường lớp và học đường đã ra lệnh cho học sinh phải biết khâm phục. Rất có thể, quanh đây, đang có ba trăm binh sĩ Đức đang chống trả anh dũng. Nhưng chắc chắn không phải là ba triệu. Số lượng càng lớn, sự kết hợp càng bấp bênh, giảm đi khả năng tìm thấy chủ nghĩa anh hùng trong sách giáo khoa. Với chúng tôi, những người đàn bà, chủ nghĩa anh hùng không gây ấn tượng vì chúng tôi được tạo hóa sinh ra như vậy, biết suy nghĩ, cơ hội và thực tế. Chúng tôi ưa những người đàn ông còn sống.
Gần nửa đêm, từ trên ghế tôi xém ngã nhào xuống đất vì mệt lả (tìm đâu ra một chỗ để nằm dài nơi đây?), tôi đành leo lên lầu một, bằng cầu thang xoáy ốc phủ đầy mảnh kính, rồi tôi thả mình mệt nhoài xuống trường kỷ của bà góa dược sĩ, ngủ một giấc đến tận sáu giờ sáng. Sau đó, tôi vô cùng kinh ngạc khi được nghe kể lại là đã có một lúc bom dội liên tục. Vậy mà tôi hoàn toàn không nghe thấy gì trong giấc ngủ.
Ra tiệm bánh mì, tôi tìm được ít bánh mì nhỏ, những chiếc bánh mì cuối cùng. Cũng là những tấm tem phiếu chót cùng. Không còn cấp phiếu lương thực mới. Không còn bất cứ một thứ lệnh lạc nào nữa, không tin tức, không gì hết. Chẳng còn một quan chức khốn nạn nào bận tâm đến chúng tôi. Đột nhiên chúng tôi hóa trở lại thành những cá nhân, và chấm dứt làm công dân. Tất cả những mối dây quan hệ đều vụt gián đoạn giữa những bạn thân hay giữa các đồng nghiệp, vì bị chia cắt bởi khoảng không gian mà đôi khi không hề vượt quá ba ngôi nhà. Con người sống trong hang, nguyên cả gia đình, như thời kỳ tiền sử. Phạm vi chân trời thâu gọn chưa đầy trăm bước chân.
Ở tiệm bánh mì, tôi nghe phong phanh giờ đây lính Nga đã vào sát huyện Weissensee và vùng hồ Rangsdorf, ngoại thành phía Nam Bá Linh. Tôi thường tắm ở bãi Rangsdorf. Tôi thử một kinh nghiệm bằng cách phát âm thật lớn: ‘‘Lính Nga đã chiếm Rangsdorf.’’ Không gì xảy ra, âm vang tồi. Hôm nay ở phía Đông, bầu trời đỏ rực lửa, những đám cháy lan bất tận.
13 giờ, tôi trở về từ chỗ lấy than. Tôi đi về hướng Nam mà chắc chắn là về phía giao tranh. Hầm xe điện đã bị chặn lại. Đám người ở lối vào hô hoán là ở đầu bên kia treo xác một người lính bị thắt cổ, mặc quần đùi, chung quanh cổ đeo một tấm bảng ghi « phản bội ». Người lính bị treo cổ thấp đến độ công chúng có thể chụp lấy chân rồi đẩy đưa cho thi thể xoay vòng. Một người nhìn thấy sự việc tận mắt kể lại. Cũng chính người này đã xô đuổi những kẻ mất dạy đang đùa nghịch làm múa may xác chết.
Đại lộ Bá Linh vắng tanh, phân nửa vỡ nát và rào chặn tứ phía. Nhiều dẫy đuôi người nối nhau trước các cửa hàng. Những gương mặt ngây dại dưới tiếng ầm ào của pháo. Nhiều xe tải chạy về phía trung tâm thành phố. Đằng sau lê lết những bóng dáng bẩn thỉu, đầy sình bùn, quấn bông băng rách rưới, những nét mặt vô hồn… Một đoàn xe thổ mộ chứa cỏ khô. Trên thành xe tựa những mái đầu bạc xám. Đến những chỗ bị chặn lại, dân phòng Volkssturm canh gác trong quân phục nối bằng nhiều khúc vải đủ màu. Ở trạm kiểm soát là những toán lính trẻ măng đến kinh hãi, những khuôn mặt trắng sữa đội những chiếc nón sắt mười phần lớn hơn đầu, giọng nói của chúng trong trẻo phát sợ. Đám lính nhiều nhất chừng mười lăm tuổi, dáng dấp mảnh khảnh và gầy ốm trong bộ đồ trận rộng thùng thình.
Làm sao không tức giận trước kiểu hủy diệt tuổi trẻ như thế này? Chỉ cần những đứa trẻ già thêm ba hay bốn tuổi nữa là chẳng còn ai thấy chướng mắt, mặc cho chúng bắn giết hoặc bị bắn đến rách nát. Biên giới ở đâu? Ở nơi tiếng nói câm nín? Vì trong ký ức của tôi, điều làm tôi đau đớn nhất, chính là âm sắc cao và thanh âm trong vắt phát ra từ giọng nói của những đứa bé đáng thương này. Cho đến tận lúc này, lính tráng có nghĩa là đàn ông. Và là đàn ông truyền giống. Giao những đứa bé cho thần chết hái đi trước khi chúng kịp chín muồi là vi phạm một quy luật thiên nhiên nào đó, là tác hại đến bản năng, phải, là đi ngược lại bản năng bảo tồn của chủng loài. Giống như loài cá ăn trứng của mình vừa sản sinh, hay loài côn trùng ăn chính ấu trùng của mình vừa sinh ra. Điều này không được quyền tồn tại nơi loài người. Nhưng điều này đang hiện diện, chính là triệu chứng hiển nhiên về sự suy đồi trí tuệ.
Ở nhà xuất bản, lúc này vắng ngắt không một bóng nhân viên, các tầng hầm vẫn còn đầy than. Thiếu phụ bị trúng bom, đã được đưa xuống tầng hầm, hỏi tôi dồn dập để biết tình cảnh nào đang chờ đợi chúng tôi. Hình như cô con gái lớn của bà, mẹ một bé con được tám tuần, từ hôm qua đã không còn sữa. Bất thình lình, cô gái không còn khả năng cho con bú, và đứa bé đang gào thét. Vì không còn tìm thấy sữa bò ở bất kỳ đâu khác, mọi người đều đang lo lắng không biết bằng cách nào có thể cầm hơi cho đứa bé. Tôi đề nghị người mẹ trẻ thử các loại rau dại. Như thế biết đâu có thể giúp cho sữa trở lại. Cùng nhau, tất cả mọi người đi tìm các loại rau trong vườn còn ẩm nước mưa, rồi với những bàn tay quấn khăn, chúng tôi hái loại rau tầm ma non mọc leo trên tường. Thêm vào nữa là lá bồ công anh, đó là tất cả những gì chúng tôi còn có thể tìm được. Hương cỏ thơm cùng với hương đất ẩm, cây ngọc trâm, những bụi nở hoa, sắc đỏ, báo hiệu mùa xuân. Nhưng tiếng đại bác vẫn cùng lúc vang rền.
Tôi chất đầy than đá vào túi đeo vai, tôi mang dễ đến 25 ký lô. Sức nặng không ngăn tôi vượt qua mặt một toán lính trên đường về. Nhờ vậy, đây là lần đầu tiên từ nhiều ngày qua tôi có cơ hội trông thấy lại nhiều loại vũ khí: hai súng phóng hỏa tiễn, một súng máy, và những thùng đạn dược. Những người lính trẻ quấn dây đạn quanh thắt lưng tựa một thứ trang sức tàn bạo.

Yevgeni Sidikhin trong vai Andreij Rybkin, và Nina Hoss trong vai Anonyma – NGUỒN FANPIX.FAMOUSFIX.COM
Khoảng giữa trưa, có một đám ma trên đường, tôi nghe nói bà góa dược sĩ đi đưa tang. Một thiếu nữ mười bảy tuổi bị một mảnh pháo nổ, cắt đứt lìa một chân, chảy máu đến chết. Bố mẹ cô gái chôn con mình trong vườn nhà, sau một cây lý chua. Họ dùng tủ đựng chổi chà thay thế áo quan.
Vậy là, giờ đây, chúng tôi có quyền chôn cất người chết nơi nào chúng tôi muốn, giống như ở thời tiền sử. Chuyện này làm tôi nhớ lại một lần, có một con chó mõm bẹt lớn chết trong tòa nhà nơi tôi ở trước kia, và cuối cùng thì nó đã được chôn trong vườn. Nhưng để chôn được con chó là cả một vấn đề! Chủ nhà, quản gia, người ở thuê: mọi người đều chống đối. Còn đằng này, là một con người mà không ai thấy có gì để phản đối, tôi tin là với bố mẹ cô gái, khoảng cách gần gũi này là một điều an ủi. Bất giác, tôi hình dung là có thể lấp đầy khu vườn bé nhỏ giữa các ngôi nhà của chúng tôi bằng những nấm mồ.
16 giờ, trong gác lửng. Tôi vừa trải qua một chuyện phi thường. Tôi đến thăm bà Golz để nâng đỡ tinh thần bà và, để giải khuây, tôi mày mò điện thoại. Ngạc nhiên xiết bao khi tôi nghe tiếng sóng điện thoại, chuyện không hề xảy ra từ bao lâu nay. Tôi quay số Gisela… và cô ấy trả lời, cô ấy hiện ở cách đây một giờ xe, về hướng Tây Bá Linh. Nói chuyện đủ thứ, chúng tôi nói hoài không dứt. Công ty nơi Gisela làm việc đã dẹp tiệm giống như thải nước hấp dồi. Chủ hãng đã căng buồm về phía Tây dông mất, bỏ rơi hết nhân viên sau lời chia tay nồng ấm. Mọi người lãng quên chúng tôi. Lo lắng, chúng tôi vểnh tai nghe ngóng, chỉ là hư không, chúng tôi thật cô đơn.
Qua điện thoại, Gisela tâm sự là cô sắp bằng tuổi cha lúc ông chết trận ở Verdun, trong thế chiến thứ nhất. Cô chưa bao giờ gặp người đàn ông này, dù là cha. Cô thú nhận, dạo gần đây, cô không thể ngăn mình thường xuyên nghĩ về cha, cô hàn huyên với ông trong suy nghĩ, giống như sắp đến lượt cô ra đi và cô sắp được gặp lại cha. Trước đây chưa bao giờ chúng tôi đề cập đến những đề tài như thế, chúng tôi sẽ rất xấu hổ nếu phải phơi trần lòng mình. Nhưng bây giờ, những điều tiềm ẩn từ trong sâu kín con người tràn ra ngoài. Vĩnh biệt Gisela, cả hai chúng ta đều đã hưởng dương ba mươi năm, biết đâu sẽ chẳng gặp lại một ngày, lành lặn và sống sót.
Tôi lại ở đây, trong căn hầm-hang động của chúng tôi, Thứ Hai, 20 giờ. Tối nay, lần đầu tiên chúng tôi nghe tiếng đạn trọng pháo chạm đích, rơi ngay góc đường. Xẹt qua, rít lên, rồi nổ tung. Lửa nháng lên khắp nơi. Những tiếng thét hãi hùng trong sân. Tôi gần như vấp ngã mỗi bước chân khi xuống thang, đến tầng trệt tôi nghe tri hô, pháo rớt ngay trước rạp hát. Kẻ thù đang ném toàn bộ đạn pháo vào chúng tôi. Lại có thông tin truyền nhau là lính Nga chỉ tập trung pháo kích. Mọi người bắt đầu nghi ngại không lực Hoa Kỳ sẽ trải thảm bom, phải nói là kinh hãi – lính Mỹ đúng ra đã phải vào Bá Linh giao tiếp với quân Nga.
Một tin đồn khác lưu truyền trong hầm. Vợ lão chế rượu mùi khẳng quyết nguồn tin cực chính xác và cực bí mật, loan báo khơi khơi với bộ ngực nhô lên sau mỗi câu: Lính Anh đã giao tranh với lính Nga, Đồng Minh phía Tây muốn liên kết với Đức trục xuất Nga ra khỏi xứ. Nhiều tiếng cười khẩy rồi tranh cãi dữ dội. Bà chế rượu bị xúc phạm nặng nên bà phun ra ngay những lời thóa mạ bằng giọng mũi vùng Sachse. Chỉ đến hôm qua bà mới rời khỏi xưởng rượu (khá nhỏ), nằm phía sau khu mua sắm ở quảng trường Moritzplatz, nơi bà qua đêm với chồng trước khi về lại nhà rồi nhập vào với nhóm chúng tôi trong hầm, chiếm lại vị trí của bà. Điều mà mọi người ở đây đều biết, là lão chế rượu mùi thích ở gần các chai lọ và nồi chưng cất hơn, vì được ở gần con bé tóc hung tên Elvira.
Mặt khác, việc đăng ký thực phẩm vẫn tiếp tục. Ngay trước lúc đóng cửa hàng, tôi còn lãnh được 150 gam bột báng. Đột nhiên, những tiếng la rồi những bước chân chạy đôn đáo làm rộn cả góc đường: ở tiệm Bolle, một chiếc xe tải đang xuống hàng, người ta vận chuyển vào trong tiệm hằng mấy tấn bơ hôi dầu với ý định sẽ phân phối. Một cân cho mỗi đầu người, đặc biệt: phân phát miễn phí, thật đáng lo ngại! Tất cả những gì họ làm là chỉ để đóng một con dấu lên phiếu lương của chúng tôi. Có phải là dấu hiệu đầu tiên của sự hoảng loạn? Hay có một nét sáng suốt nào mà tôi không nhận ra từ phía chính quyền? Chỉ trong nháy mắt, đám đông tụ tập ngay trước cửa hàng, đánh nhau bằng nắm tay và bằng cả dù. Tôi cũng chen lấn vài phút vào đám đông đang giành giật, chộp bắt trong lúc xô đẩy vài thông tin liên quan đến những đơn vị dự bị, quân tiếp viện với thiết giáp sẽ đến giải vây mà không rõ từ đâu… Một phụ nữ khẳng định đã nghe một bản tin tương tự, đêm hôm trước, trên máy phát thanh. Ngay sau đó tôi đã bỏ lại miếng bơ, không cần thiết phải đấm đá nhau chỉ vì thế. Ít ra chưa nên. Có lẽ tôi sẽ phải tập nay mai.
Đêm yên lành. Xa xa tiếng súng không dứt. Hôm nay, đám dân bé nhỏ trong hầm của tôi mệt nhừ. Không một tiếng động, không một lời nói. Chỉ có tiếng ngáy và tiếng thở của những đứa bé con buông những tiếng kêu nhỏ trong giấc ngủ say.
Thứ Ba 24 tháng 4-1945, buổi trưa
14 giờ. Mặt trời vừa ló dạng. Dại dột làm sao! Tôi lao ra lan can trông xuống sân, thả mình xuống ghế bành bằng mây để tắm nắng và sưởi ấm mình một lúc. Cho đến khi một tràng đạn rít qua đầu. Tiếng nổ liên tiếp. Tôi đã quên bẵng đi đang chiến tranh. Vả lại, đầu óc tôi trống rỗng kỳ quặc… khi viết những dòng chữ này, tôi đã giật thót mình, vì đạn ghim ngay sát cạnh làm một tấm kính vỡ toang. Cơn đói lại giày vò tôi thêm một lần nữa mặc dầu dạ dày còn đầy. Tôi có nhu cầu khẩn cấp phải nhai một thứ gì đó. Làm sao hài nhi vừa sinh ra có thể cầm hơi lúc này khi thiếu sữa? Hôm qua trong lúc xếp hàng, mọi người bàn tán về nạn tử vong của những trẻ sơ sinh và một bà lão đã khuyên nên thay sữa đã cạn bằng bánh mì nhai dập cho nhuyễn, thấm thật nhiều nước miếng.
[…]
Thứ Tư 25 tháng 4-1945, buổi chiều
‘‘Con người đều là những con lừa đực và những con lừa cái phải mang trên mình những gánh nặng.’’ (Nietzsche, thì phải).
[…]
