Tưởng là chuyện đùa giỡn trong lần gặp gỡ năm ngoái khi ông giáo sư về lịch sử sách vở, Tiến Sĩ Erik Kwakkel, tại Leiden University, Hòa Lan, nói rằng ông ấy sẽ đăng đàn mạng ảo công bố các khám phá của mình. Ghi chép và công bố các kết quả từ công trình nghiên cứu là chuyện rất bình thường của các chuyên gia, nhưng sử dụng mạng ảo để chuyển tải các dữ kiện khoa học đến công chúng là một khái niệm tương đối mới mẻ và khó khăn gấp mấy mươi lần! Lý do? Muốn thu hút công chúng về các đề tài khô khan như cổ thư, nhân chủng…, những chuyên gia kia phải thay đổi cách trình bày, mô tả sự kiện khoa học, lịch sử, tránh dùng những chữ quá chuyên môn và luôn luôn phải mở đầu bằng cách kể chuyện có lớp lang thứ tự để người đọc không chuyên môn có thể theo dõi câu chuyện mà không ngáp dài rồi bỏ qua!

The Book of Kells
Ông Kwakkel đã thành công rực rỡ, không những về công trình nghiên cứu mà cả việc sử dụng mạng ảo một cách thần kỳ. Ông ta mở đầu câu chuyện chuyên môn bằng những bài viết ngắn, giản dị, nhưng loạt bài mô tả việc vẽ ngoằn ngoèo, doodling, của tiền nhân khiến ông ấy nổi tiếng lẫy lừng, mang tên tuổi của Leiden University trở lại với công chúng khắp nơi. Ngày xửa ngày xưa, trường đại học này là trung tâm giáo dục của Âu Châu. Nói văn vẻ hơn, đây là cái nôi khoa học, nhất là ngành y khoa, của thế giới trong thế kỷ XV, XVI. Trong loạt bài kể chuyện thăm viếng Hòa Lan, Dế Mèn có nhắc đến một số chi tiết về thư viện của trường đại học này nơi tàng trữ một số cổ vật vô giá của các thầy lang Âu Mỹ.
Các hình vẽ ngoằn ngoèo, tuổi cả 700 năm, được ông Kwakkel đặt tên là ‘Medieval eye candy’ hay “viên kẹo ngon mắt thời Trung Cổ”. Người Âu Mỹ thường gọi đùa những thứ thu hút con mắt bá tánh, hay ‘thị hiếu’, là các viên kẹo ngon mắt, “eye candy”.
Các hình vẽ ngoằn ngoèo của tiền nhân cũng in hệt như ta bây giờ, nôm na là 700 năm đã trôi qua nhưng tâm tình của con người vẫn có phần tương đồng! Thì ra cổ nhân cũng in hệt người thời nay, cũng có lúc để hồn lan man, buồn chán nên các ngón tay hí hoáy, nguệch ngoạc những hình thể vô nghĩa, đùa cợt chẳng hạn như hình vẽ con chó với cái mõm quá khổ…
Các hình vẽ nguệch ngoạc ấy hé mở cho ta thấy một số ý tưởng thầm kín cũng như vài thói quen trong cách sống của người xưa.
Vào thời Trung Cổ (hay xưa hơn nữa), tiền nhân dùng chuôi lông chim, lông gà cắt xéo làm ngòi bút, nib. Chữ viết có đẹp mắt hay không là do ngòi bút này đây. Mức rộng hẹp của ngòi bút tùy theo độ cắt chéo của đuôi lông, ngòi nhọn quá thì nét chữ gầy gò, khẳng khiu không đẹp mắt. Và họ thử ngòi bút bằng cách nguệch ngoạc trên giấy. Tất nhiên các mảnh giấy nguệch ngoạc các hình thể ngoằn ngoèo vô nghĩa kia không nằm trong thư tịch, không được bảo trì gìn giữ để lưu truyền như những thứ được xem là quý giá nhưng, nhưng chính những món “vô nghĩa” ấy lại phản chiếu rõ ràng, chân thật nhất các sinh hoạt đời thường!

Medieval rockstar, Medieval air guitar
Tiền nhân cũng đầy tâm hồn… nghệ sĩ, họ là người “tốt chữ”, được thuê mướn để ghi chép hay đang tu tập trong nhà dòng, đã tỏ lộ sự phóng khoáng, thoát ra ngoài các khuôn thước, chuẩn mực đương thời, óc tưởng tượng phong phú qua việc phóng bút. Có vị nguệch ngoạc ra các hình ảnh ngộ nghĩnh, siêu thực, lạ lùng có tính cách đùa vui như hí họa thời nay. Có vị thay đổi hình thể các chữ cái, chữ con qua việc thử ngòi bút, chữ ‘a’, ‘b’ không còn đơn thuần các nét chuẩn mực mà trở thành rồng bay phụng múa. Có vị thực tế hơn, dùng hình vẽ khuôn mặt nhọn mũi khác thường để lưu ý người đọc, như ta đánh số hoặc dùng dấu chấm, dấu hoa thị ở đầu dòng.
Những hình thể nguệch ngoạc có cái đơn giản, xuề xòa như thể ghi chép một sự kiện nào đó quan trọng với chủ nhân nhưng cũng có món tỉ mỉ đầy nghệ thuật chứng tỏ “tay nghề” của chủ nhân.
Trong những dấu hí hoáy để thử ngòi bút, có vị dùng chữ viết cá nhân thay vì chữ viết theo khuôn thước ghi chép và các chữ viết cá nhân ấy giúp các tay khảo cổ thời nay biết thêm về sinh hoạt sách vở thủa ấy.
Mỗi hình vẽ thể hiện là một phần tâm tính, nhân cách của người nguệch ngoạc… Tựu trung, các bức vẽ nguệch ngoạc vô định này nói lên cách giải trí [hiền lành, ít tốn kém] của tiền nhân trong một thời đại xa cũ.
Các trang giấy nguệch ngoạc xa xưa ấy thường là những tờ “ngoài bìa”, là trang trong của bìa trước hoặc bìa sau một cuốn sách khi sách vở còn là những tác phẩm chép tay. Các trang giấy này được dán vào mặt trong, làm dày bìa sách nên chẳng mấy ai thấy dấu vết của những khoảnh khắc của “giờ ra chơi”. Đôi khi, trên cổ thư, ta còn tìm thấy các hình thể nguệch ngoạc trên rìa trang giấy, có lẽ từ các học trò buồn chán ngán ngẩm lúc phải dùi mài kinh sử nên vui tay hí hoáy (?) kể cả ký tên mình, in hệt học trò ngày nay! Giữa những trang giáo luật khô khan nhưng rồng bay phụng múa như những trang cổ thư Kells, thỉnh thoảng ta tìm thấy mảnh hí họa thú vật của một tu sinh đang ngán ngẩm, lo ra ngoáy bút trên rìa trang sách!
Dế Mèn rẽ ngang một chút để nhắc chuyện cuốn cổ thư lẫy lừng thế giới, The Book of Kells, tên gốc là “Great Gospel of Columkille”. Có lẽ đây là một cổ thư nặng ký nhất của thế giới, theo đủ nghĩa đen và nghĩa bóng, mang tên tu viện lưu trữ, the Abbey of Kells từ thời Trung Cổ. Ngày nay, tập cổ thư được tàng trữ trong thư viện của Trinity College tại Dublin, Ái Nhĩ Lan (Ireland) và phụ bản được khênh lên mạng ảo để bá tánh khắp nơi có thể nhìn ngắm. Ngày nọ, khi phe ta rong chơi từ Dingle đến Dublin có ghé Trinity College và được nhìn ngắm hai trang của tập cổ thư trong lồng kính, dưới ánh đèn mờ ảo. Mở đầu mỗi trang, vần đầu tiên được vẽ lớn hơn, tô màu và trang trí tỉ mỉ với hoa lá, mỗi chữ được nắn nót, tô vẽ thì chính xác hơn (?) theo mẫu nghệ thuật Hiberno-Saxon hay “Insular art” vì kiểu mẫu này có nguồn gốc từ quần đảo Ăng Lê, British Isles trong thời hậu La Mã, khoảng thế kỷ thứ VII. Hầu hết cổ thư, tác phẩm nghệ thuật… sáng tạo theo kiểu mẫu này đều xuất phát từ các tu viện tại Ái Nhĩ Lan và được gọi chung là “Celtic Christianity”. Nghệ thuật này chú trọng đến hoa lá, hình tượng thú vật đời thường và thần thánh cũng như các nút thắt rất đặc biệt, Celtic knots.

Kwakkel
Tương truyền rằng cuốn sách xuất phát từ thời Thánh Columba sinh sống trong khoảng thời gian 521 – 597, người truyền đạo đầu tiên tại Tô Cách Lan. Vị Thánh này xây dựng tu viện Iona, nơi này trở thành trung tâm tôn giáo và quyền lực của địa phương ấy. Có giả thuyết cho rằng Thánh Columba là tác giả của tập cổ thư nhưng thực ra nghệ thuật Đảo Quốc, Insular Art, chỉ xuất hiện sau đó cả trăm năm. Giả thuyết khác, có lẽ chính xác hơn, cổ thư Kells được tàng trữ tại Iona nhưng vào thế kỷ thứ IX khi tu viện bị quân đội Viking xâm chiếm và cướp bóc, các tu sĩ chạy trốn mang theo được cuốn cổ thư đến Ái Nhĩ Lan.
Book of Kells là một cuốn sách chép dở dang, bìa trước và bìa sau là những tấm da dát vàng bị mất dấu. Theo các nhà nghiên cứu cổ thư ngày nay, cuốn sách được chép theo một khuôn mẫu thư pháp nhưng những nét rồng bay phụng múa ấy vẫn mang cá tính đặc biệt, và dường như chữ viết, hình minh họa đến từ ba nghệ sĩ khác nhau!
Mực sử dụng là loại mực có màu đen, tím đỏ và vàng chế biến từ muối sắt và các acid từ cây cỏ, gall ink. Và màu tô vẽ đến từ các loại đá nghiền nát, không có gốc gác địa phương. Hẳn là thủa ấy, tu viện thu thuế nên có thể cáng đáng nổi các món hàng nhập cảng?
Ngày nay tập cổ thư có kích thước 33 x 25 cm, gồm 340 chương, chữ viết trên da bò non. Mỗi trang (da) có độ dày mỏng khác nhau. Cuốn sách ghi chép ‘Phúc Âm’ của Thiên Chúa Giáo được chia làm bốn tập. Qua thời gian, tập cổ thư được thêm thắt khá nhiều món đương thời, kể cả chữ ký của Queen Victoria và Prince Albert vào năm 1849 trên một chương sách. Chương sách này về sau được (bị) khẳng định là phần “mới”, phần “thêm” nên được tách rời và giữ riêng (làm kỷ niệm?). Chỉ những chương gốc được gom chung vào tập cổ thư.

Cách uống rượu (hay ép rượu đổ rượu?)
Mỗi tháng cuốn cổ thư được sang trang một lần, nghĩa là thư viện thay đổi phần trình bày của cuốn sách hàng tháng. Vào mùa Giáng Sinh thì trang sách viết về ngày Chúa ra đời được trình bày như một ngoại lệ. Ngày ấy, nhân viên thư viện giải thích với Dế Mèn như thế, không biết bây giờ họ còn giữ “tục lệ” trưng bày mấy trang đặc biệt này vào mùa Đông không? Phe ta nhìn ngắm hai trang sách mở đặt trong lồng kính dày mà hết hồn vì cuốn sách dày cui, tô vẽ tỉ mỉ từng nét như thế thì các tu sinh chắc mất… cả đời?
Và họ tô vẽ tỉ mỉ như thế để làm gì? Tôi luyện đức kiên nhẫn, sự tập trung trong công việc nhỏ nhất như mọi tu sĩ từ các tôn giáo khác nhau? Những tập kinh sách, tranh vẽ, tượng thần thánh, gọi chung là các vật thể có tính cách tôn giáo, được tô điểm rực rỡ với từng chi tiết được các tu sĩ (hay thợ chuyên môn đương thời?) sáng tạo để thờ phượng? Và chính vì việc thờ phượng nên kinh sách cổ còn lưu dấu đến ngày nay trong khi các loại cổ thư khác tàn rụi hoặc biến mất?
Trở lại với các trang giấy hí hoáy của nhà quản thủ sách vở, khi ngắm nhìn các hình thể ngoằn ngoèo ép giữa bìa sách, ông Kwakkel cho rằng ổng đã ghé mắt dòm qua khe cửa và làm một chuyến du hành về quá khứ với người vẽ ngồi bên cạnh… Tạm hiểu là một phần tâm tư của chủ nhân hình vẽ nọ đã vượt thời gian mà xuất hiện trước mắt bá tánh ngày nay, cũng đầy đủ hỷ nộ ái ố… Và con người không khác nhau cho lắm: Con chó chu mõm trong mấy nét nguệch ngoạc 700 năm trước không khác chi hình ảnh của mấy tấm hí họa ngày nay. Tấm hình vẽ nguệch ngoạc nhưng đủ chi tiết để ta thấy người hí hoáy là học trò đang trong lớp học và đã phóng tay vẽ bạn đồng song. In hệt như học trò lúc mơ màng của thế kỷ XXI. Một hình ảnh khác đến từ xấp giấy 132 mảnh, các tấm giấy nhắn người phụ việc của một quý tộc Đức, ngắt cho tôi một bó hồng dại và nhớ tìm các nụ còn hàm tiếu nhé… thơ mộng và nhẹ nhàng không khác chi người đời nay!
Và trông tấm hình này đây thì cách uống rượu (hay ép rượu đổ rượu?) này là một hình phạt thay vì thưởng thức? Hay người xưa cũng đổ rượu như những đứa trẻ mới lớn thách thức nhau trong hàng quán xem ai chịu được nhiều rượu hơn?

Trong công việc, Tiến Sĩ Kwakkel thường làm việc chung với 15 sinh viên, họ cùng nhau cặm cụi trong thư viện ròng rã suốt ba ngày khảo sát các tấm bìa bọc sách vở thời Trung Cổ. Từ năm 1436 sau khi ông cụ Gutenburg phát minh ra máy in thì sách chép tay không còn được ưa chuộng nữa. Điều dễ hiểu là sách in thì nhanh hơn và có thể phát hành rộng rãi hơn.
Ông Kwakkel và nhóm cộng sự đã khám phá vô khối tài liệu quý hiếm qua việc tìm kiếm giữa những tấm bìa cổ thư! Và họ say sưa tiếp tục công việc. Mỗi khám phá là một kỳ thú. Ngoài các tấm giấy nguệch ngoạc, các chuyên viên còn tìm ra bản nháp của các học giả thời xưa, chuyển dịch sách vở từ ngôn ngữ Ả Rập sang La Tinh. Bình thường chỉ có bản chính của sách vở được lưu hành và gìn giữ. Bá tánh chỉ được đọc những tác phẩm sau khi hoàn chỉnh, nhưng các bản nháp kia cho thấy cách thức chuyển dịch của người xưa.
Đọc mấy bài viết của nhà quản thủ sách vở mà Dế Mèn chạnh lòng quá. Cách cổ nhân thử ngòi bút không khác cho lắm cách ta nguệch ngoạc vài nét trước khi ký tên hay viết một lá thư tay ngày nay. Nhưng khi bút mực mất dấu vì con người sẽ chỉ dùng bàn phím mà lóc cóc thì nghệ thuật hí hoáy kia mới hoàn toàn đi vào quên lãng? Con cháu ta sẽ không còn hí hoáy những tấm biếm họa để chế giễu những nhân vật không được ưa chuộng? Mấy thế hệ sắp tới sẽ nhìn ngắm các mảnh giấy nguệch ngoạc mà không biết cha ông nghĩ ngợi những gì vì chẳng có sự tương đồng nào giữa quá khứ và tương lai?
Dường như sách vở thời nào cũng mang theo cái hồn của người viết và người đọc chưa kể cảm giác tẩn mẩn, bâng khuâng khi ngửi mùi sách cũ, mùi mực mới trên trang giấy tinh khôi phẳng phiu. Khi việc đọc sách chỉ còn là nhìn mặt kính trên dụng cụ “chiếu” sách như bảng điện toán thì không biết ta còn bắt gặp cảm giác bâng khuâng kia không nhỉ? Hay người ở đây mà hồn năm xưa đã biền biệt?