Trong tham luận đọc tại Hội Thảo 20 năm Văn Học Miền Nam hồi đầu tháng 12 năm 2014 ở Nam Cali, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra nhận định: Văn Học Miền Nam là nền văn học chịu đựng nhiều bất hạnh. Gần đây, nói chuyện với Mặc Lâm trên đài RFA, ông trình bày thêm cho rõ ý: Khi nói văn học miền Nam là một nền văn học bất hạnh, tôi chỉ nhắm vào cái “hậu vận” sau năm 1975 ấy. Sách báo bị tịch thu và thiêu hủy; tác giả bị bắt bớ tù đày; cả một nền văn học kéo dài hai mươi năm bị xuyên tạc và nhục mạ…Thế vẫn chưa đủ, trong những năm 1980, 1981, CS còn truy tố trước tòa án những người buôn bán sách báo cũ, thậm chí có người như Vinh Sử và Bùi Đình Hà bị kết án 20 năm tù giam ở Sài Gòn. Từ sau năm 1975, Cộng Sản tung ra nhiều chiến dịch khủng bố tàn khốc nhằm vào các văn nghệ sĩ cũ của miền Nam. Có người phải đi tù cải tạo tới mươi mười lăm năm, có người chết trong tù, một số khác chỉ được thả ra để về nhà chết.
Quả là ở cái thời của quỷ ấy, sách báo là những nạn nhân bi thảm của cơn đại họa. Nhiều cuốn sách bị đem thiêu hủy hoặc thả trôi sông, một số bị kẻ mạnh kẻ dữ hốt về đem nhốt ở một nơi nào đó, đa số trôi nổi ở chợ trời, dầm mưa dãi nắng, thân lấm bụi đường. Còn nhớ hồi dép râu nón cối mới vào Sài Gòn, một bộ phận nằm ngay dưới tầng trệt của cư xá Thanh Đa, thỉnh thoảng có tên tìm vào nhà, mắt láo liên, hỏi han nhìn ngó tò mò. Thấy tủ sách là xô ngay tới lục lọi. Hãi quá, một hôm mình phải lựa ra một số sách cho vào bao bố đem quẳng xuống sông Thanh Đa. Đó là những cuốn Giờ Thứ 25, Kẻ Lữ Hành Cô Đơn, Chúa Đã Khước Từ, Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh, U Hoài, Đêm Tâm Tình Viết Lịch Sử, Dòng Sông Thanh Thủy… Nhìn bao sách từ từ chìm xuống dòng nước mà lòng cảm thương vô hạn. Ôi, sách ôi. Hỏi trên thế giới có nơi nào những cuốn sách, những đứa con tinh thần cao quý của con người, phải chịu số phận thảm khốc nhường ấy không.
Thời ấy, vỉa hè đường phố bày ra cảnh chợ trời sách thật là nhộn nhịp. Chạy rồi nhóm lại liên tục. Người mua sách phần lớn là những nhà văn, cán bộ học thức mới từ ngoài Bắc vào. Dương Thu Hương đã từng mua được những cuốn sách quý ở chợ trời Sài Gòn thời đổi chủ. Còn nhà văn Miền Nam có người đi bán sách nổi trôi để kiếm sống như Phạm Kiều Tùng. Gần đây trên trang Gió-o, nhà văn Nguyễn Thị Hải Hà kể lại kinh nghiệm đi chợ trời sách thời ấy: “Những người bán sách đựng sách trong một cái thùng giấy carton, hay đổ sách ra trên một tấm bạt vừa bán vừa ngó dáo dác, chuẩn bị tóm gọn đồ hàng để chạy.
“Tôi cũng mua được một số sách, bán rẻ, đại hạ giá người ta bán để tránh bị tịch thu. Trong số sách tôi mua, có một quyển dịch Thơ Đường, tôi không nhớ tên dịch giả chỉ biết quyển sách này đắt nhất trong số sách tôi mua… Số sách tạp nham tôi mua, không muốn nộp cho các tổ đi thu sách bài trừ văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy, tôi nhét vào khe hở giữa mái nhà và trần nhà. Nhà tôi có một cái chái de ra, nới rộng căn nhà nhỏ bé đông người để bọn chúng tôi có chỗ ngủ. Cái chái này thấp thôi, nên tôi có thể đứng lên cái ghế và nhét sách vào chỗ hổng giữa nóc chái và tấm phông dưới mái để giảm sức nóng của mái tôn. Chẳng nhớ số sách tôi mang đi giấu có những quyển gì, chắc là vài cuốn tiểu thuyết dịch, vài cuốn thơ của Phạm Thiên Thư, Đinh Hùng, Nguyễn Tất Nhiên, triết lý cao lắm là đến cỡ Nói Với Tuổi Hai Mươi của thầy Thích Nhất Hạnh.
Chợ sách cũ (hình có tính minh họa) – nguồn coviet.vn
Một số sách còn lại tôi bỏ vào bao thòng qua vách tường chùa Giác Nguyên bên cạnh. Tôi hỏi thầy trụ trì, người ta kiểm kê bắt nộp sách, thầy cho con gửi sách được không. Thầy nói, được được.
“Rồi thôi, năm 1980 rời Việt Nam, tôi quên luôn. Năm 2007 chị tôi ở Việt Nam sang chơi kể lại. Số sách tôi nhét dưới mái của cái chái và tấm phông trần nhà, lâu ngày bị mối mục. Chị tôi phải thuê người tháo cả tấm phông và để lấy sách xuống vì tôi nhét, cuốn bên ngoài đẩy cuốn bên trong vào khá sâu nên không thể dùng cây khều ra. Có lẽ chị cũng chửi thầm, con quỷ đó nó phá của phá nhà. Đi ra khỏi nước rồi mà vẫn còn để lại những chuyện làm nhọc lòng gia đình.”(Từ một khung cửa sổ)
Những cuốn sách của một thời. Ngồi nhớ lại mình đã yêu quý chúng biết bao. Trong nhà bao giờ chúng cũng ở một chỗ trang trọng nhất. Hồi đó, trước 1975, mỗi lần mua được một cuốn sách mang về là nâng niu, lật từng trang đọc, có khi đọc đi đọc lại, rồi chọn cho nó một chỗ thích hợp trên kệ sách để nó nghỉ ngơi. Ôi những thân yêu ấy, vậy mà phải bỏ lại để ra đi. Một sáng của tháng 6 năm 1975, rời nhà vào trại tù cải tạo để lại đằng sau bao nhiêu trìu mến. Ngôi nhà, vợ con và những cuốn sách. Bảy năm trời ở những lán trại mịt mùng trong Nam ngoài Bắc, đâu thấy bóng cuốn sách nào. Ngày về thì tủ sách đã gần như trống trơn. Những cuốn sách mình từng yêu quý lần lượt bỏ ra đi để đổi lấy gạo cơm cho vợ con. Phải vậy thôi, con người cần có trước tiên thực phẩm để sống còn. Tuy nhiên cũng còn một điều an ủi: cuốn bản thảo thơ và cái túi xách của gã làm thơ vagabond vẫn được vợ giữ lại cho tới ngày về.
Một điều rất đỗi riêng tư và dấu ái với kẻ này, đó là sống không thể nào thiếu sách được. Dần dà qua thời gian khổ ải dưới chế độ con người xếp hàng chó ngựa mình cũng kiếm lại được những cuốn sách. Cho tới ngày bỏ nước ra đi, sau mười ba năm, tủ sách đã đầy lại. Ngày lên đường đi định cư vợ chồng ngoài va-li quần áo còn mang theo được hai thùng sách và hai cây đàn guitar cho hai cậu con. Sách ơi, tưởng đã mất nhau vĩnh viễn mà rồi có lại. Cũng như người và người xa cách để có ngày trùng lại.
TN