Bước chân vào đến cửa đã nghe con trai hỏi: Bố Mẹ thắng hay thua? . Biết chúng tôi vừa về từ Las Vegas nên con hỏi thăm vậy đó. Đánh bạc thì làm sao mà thắng được con. Mà Mẹ thì không muốn thua nên 1 xu kéo máy cũng không chơi con ơi. Tôi trả lời con mà quên mất, bây giờ đâu còn vụ kéo máy. Chỉ toàn nhấn nút (trừ những bàn chơi có nhà cái, nhà con). Biết tính Bố Mẹ nên các con cười, chọc quê ông bà già không chịu đóng tiền điện cho Casino. Tụi nhỏ biết chúng tôi đi xem “sô” trình diễn ảo thuật lừng danh của David Copperfield. Sau một thời gian khá lâu không xuất hiện, màn trình diễn đầu tiên khi trở lại với sân khấu của sòng bài MGM là buổi tối thứ hai. Chủ nhật đến, thứ hai coi ảo thuật, thứ ba về. Nghe như nói giỡn mà là thật. Nhờ lấy vé rất sớm, trước ngày trình diễn cả gần ba tháng, chúng tôi may mắn được ngồi hàng đầu, chỉ sau hạng dành cho khách quan trọng (VIP), ngay phía giữa sân khấu, nhìn tận mắt để công nhận xứng đáng “đồng tiền bát gạo” thật.

Tiệm Phở
Buổi chiều hôm mới đến, chúng tôi xuống phố ăn phở. Trên đường lớn đã nhìn thấy chiếc xe Van hai bên hông có hàng chữ Phở Little Sàigòn. Quyết định ủng hộ đồng hương. Chúng tôi liền quẹo vào con đường có xe đậu, đi đến cuối đường chẳng thấy gì, làm một vòng, gần ra đến đường lớn thì thấy khu thương mại nho nhỏ. Trời Las Vegas mấy hôm nay lạnh bất thường. Chúng tôi vào thưởng thức món Phở nóng thật hợp cảnh. Có giá trần sơ, không chín, ăn kèm. Khi mang ra, cậu sinh viên phục vụ dễ thương giới thiệu “đĩa giá tám rưỡi” khiến chúng tôi ngơ ngẩn mất vài giây để rồi bật cười vì tám rưỡi nghĩa là chưa đến “chín”. Thế là chúng tôi bàn lan man về ngôn ngữ. Chị bạn kể chuyện một bà Bác bên Đức. Mới di cư sang ba tháng mà đã dám chào hỏi người bản xứ. Gặp ai bà cũng “cục tác”, (âm thanh nghe giống như lời chào một ngày tốt đẹp), thế là cười vui vẻ. Bà tiếp luôn câu “rau bí rau dền” nghe như câu chào tạm biệt của người Đức. Hai bên càng thân thiện hơn. Rồi một bà Bác lớn tuổi khác ở Hoa Kỳ cũng hay không kém. Đi chợ không cần người thông dịch, vẫn mua được món mình cần. Bác kể: Tôi lấy tảng thịt heo lớn, đưa đến chỗ hàng thịt rồi bảo: Hamburger. Họ hiểu ngay là tôi muốn xay miếng thịt đó. Đó là chuyện xưa thật xưa, hồi người Việt Nam định cư xứ người chưa nhiều. Giờ thì người Việt có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Món Phở quốc hồn quốc túy cũng theo đó mà đi khắp năm châu bốn bể. Năm 1975, đi phố Tầu ở Manhattan, New York, gia vị, thực thẩm để nấu món Việt còn nghèo nàn vì số lượng khách (số cầu) ít ỏi, các doanh nhân thấy thương vụ chưa đủ lớn để họ sản xuất. Lúc đó đã có nhiều loại gia vị, hồi, gừng, quế, nước mắm. Chưa có bánh phở khô, bún khô, phải dùng mì Ý (Spaghetty) để thay. Thế mà chỉ hơn một năm sau hầu như không thiếu thứ gì kể cả rau muống. Phở trở thành món dễ nấu nhất. Nước cần ngọt, trong, và thơm mùi (phở). Quen bác Bồng trước kia đã có tiệm Phở ở Sài Gòn tôi học được bí quyết: Lựa Xương. Thủa ấy chợ thịt cho xương hay bán giá rất hạ (25 xu một pound) nhưng phải nấu lâu, nhất là canh chừng khi mới sôi để hớt bọt. Nếu không nồi nước lèo sẽ đục ngầu, mất ngon mắt. Thời giờ không có, tôi hay mua cả tảng thịt bò loại rẻ nhất để nấu. Chỉ cần mấy tiếng đồng hồ là có một nồi Phở ngọt nước ngay. Bắt chước cách bác nấu, chỉ cho Gừng, củ hành nướng lúc bắt đầu nấu, và bỏ vài cánh Hồi một giờ trước khi ăn là xong. Nước vừa ngọt, trong, thơm và nhanh. Sáng nấu chiều ăn. Dễ dàng. Phở tôi nấu đơn giản, không giống nhiều người bỏ Quế, Đinh hương, Hồi hương.. hay một gói gia vị nấu phở vào cho ngon. Ngon hay không lại là một vấn đề khác. Tùy khẩu vị người ăn, thích hợp thì khen ngon. Không hạp miệng là thành dở ngay. Bởi vậy mới có rất nhiều hàng quán cùng bán Phở, nơi nào cũng đông vì có một số khách riêng. Ông xã tôi là một “đệ tử” của thầy Phở. Ngày nào cũng ăn Phở, đủ cả 7 ngày một tuần lễ vẫn vui vẻ như thường. Đi chơi xa, tới chỗ nào cũng muốn thử món Phở địa phương đó. Do đó khi nghe nói Las Vegas có món “Phở của người Hawaii” nổi tiếng là tụi tôi “chiếu cố” liền. Trí tò mò càng tăng khi được biết món này chỉ được bán sau 11 giờ tối, trong sòng bài và khách sạn mang tên “California”. Trước 11 giờ chúng tôi có mặt. Ngay tại cửa đã có ít người sắp hàng sẵn. Bảng thực đơn ghi: Soup Đuôi Bò, $9.99 một tô. Chờ khoảng 10 phút chúng tôi vào và không cần xem thực đơn, mỗi người gọi một tô soup đuôi bò. Chỉ năm phút sau, người hầu bàn đã bê ra đĩa chanh thái miếng màu xanh, những khoanh ớt đỏ mỏng như tờ giấy và một cái chén con (loại để chấm) đầy Gừng băm nhuyễn. Tôi còn đang ngắm thì những tô soup (to như tô phở xe lửa) nóng hổi, nghi ngút khói được bầy lên bàn. Những khúc đuôi bò hầm mềm có cả hành, ngò thái nhỏ trên mặt thật đẹp mắt. Rất thơm, hơi thiếu mùi Hồi. Bỏ Gừng vào tô, vắt thêm miếng Chanh, gắp ít khoanh ớt đỏ thắm vào, ta có tô phở “không hành khách” (Trái ngược hẳn tô phở “không người lái”, có bánh phở mà không có thịt). Tô soup đuôi bò mà tôi gọi là tô phở Hawaiian đầy thịt bọc xương, không có cọng bánh phở nào gợi nhớ đến những lần Mẹ không làm thức ăn, tôi mang chiếc “liễn” (loại tô thật lớn, bằng men, có nắp và 2 quai cầm) đi mua nước phở và “xíu quách” về ăn với cơm. Y hệt như thế này thôi. Tô soup đuôi bò này ngon thì có ngon thật nhưng sức người có hạn, tôi không tài nào ăn hết 6 khúc đuôi bò bự bằng nửa bàn tay, chỉ một nửa đã là giỏi rồi vì không phải giờ ăn mà là giờ ngủ (cách Florida 3 tiếng đồng hồ). Khi đi ra thì hàng người sắp trước cửa tiệm đã thành con rắn vòng vèo uốn lượn. Họ cũng đi ăn phở. Phở Hawaiian.
Chúng tôi đi về phòng ngủ khi người ta bắt đầu đi chơi.

Khách sắp hàng chờ giờ mở cửa

Thực đơn