Trong các loài ong, nơi các miền quê thường nhắc đến nhiều là ong giú là loại ong nhỏ hơn con ruồi, xây tổ trên các cành cây nhỏ như cam quýt, không có mật, không chích người; ong lá là loại ong vàng vàng, ở theo lá cây, có nọc độc; ong bần tương tự như ong lá, chúng thường làm ổ trên các nhánh bần; ong nghệ là loại ong vàng, mình nhỏ mà dài, màu vàng, không có mật; ong ruồi là loại ong giống con ruồi lớn, biết xây tổ khá lớn, có mật và rất dữ; ong sắc là loại ong cánh màu đỏ tía, hay cắn và chích, chúng ở lẫn với ong mật, nếu mình lại gần ổ ong mật chuẩn bị lấy mật thì thường bị ong sắc túa ra chích mình; ong vang là loại ong dữ, ai bị loại ong này chích thì bị vàng con mắt; ong vò vẽ là thứ ong rất dữ, lớn con,cánh vàng và đen, không có mật, nếu ai bị chúng chích trên bảy vít trở lên sẽ bị sưng và hành rất nhức nhối, có thể bị chết; ong lỗ cũng dữ như ong vò vẽ, chúng làm ổ dưới mặt đất, nếu trâu bò đi ngang qua chỗ chúng làm ổ, rủi đạp nhằm ổ của chúng, chúng sẽ túa ra chích trâu bò chạy nhanh cách gì cũng không khỏi. Dân quê thường nói “Ong lỗ chích trâu cũng phải rống”, tức là dù trâu lớn con với sức vóc như vậy nhưng trâu cũng chịu không nổi những vết chích của ong lỗ mà phải rống lên những hồi rất dài như vậy …
Nhưng có lẽ dân quê nhắc nhiều nhứt là ong mật. Ong mật là loại ong làm tổ rất lớn và trong tổ có mật. Trong sách Trang Tử có nói: “Con ong không có con cái mà hóa.(Hóa là không giao cấu mà sinh) (3). Và trong sách “Loại tụ” chép về việc “Ong chúa” cũng như dân miền núi nói cách nuôi ong mật, không sai chút nào. Có một giống ong chúa, đầu vàng như hình cái mũ vàng, lưng vàng như cái đai vàng, Còn ong quân, mấy trăm con, đều đen cả. Con ong chúa đẻ con, khi lớn lên, liền chia ngay quân cho ở riêng, như chế độ phong kiến. Tuy có nhiều ong chúa, nhưng đội ngũ quân không lẫn lộn. đã có người bắt hơn một trăm con ong trong một bộ đội này, ngắt hết cánh, cho lẫn với đội khác, nhốt vào một cái thùng, lâu rồi thả ra, thế mà nó vẫn nhận được chúa nó, không lẫn chút nào.

Ong đang cần cù hút nhụy bông thanh long vào Tháng Bảy.
Nhân dân miền núi nuôi ong, sợ nó chia mãi quân của nó ra, thường giết bớt ong chúa đi, cho có nhiều ong quân để lấy mật. Ong đi lấy nhụy hoa, cắp vào đùi đem về, thứ nào quý thì đắp vào đầu đem về dâng chúa. Ong chúa bay ra ngoài, có quân đi hộ vệ; bên trong thùng, ong xếp đặt có hàng lối; mỗi ngày hai lần xếp hàng; hoặc khi mất chúa thì quân đều nhịn đói chết, chứ không chịu thần phục chúa khác.”(4)
Về hình dáng ổ ong mật, theo một tài liệu được biết như sau: “Ổ ong do một bầy ong thợ bám mình vào nhau và nhả sáp ra xây thành nhiều tầng dày độ 23mm, và cách nhau độ 11mm, ngoài có nhiều miệng lỗ hình lục lăng bằng nhau như cùng đúc một khuôn, trong có từ 20,000 đến 40,000 lỗ chia thành bốn thứ:1/ Lỗ nuôi ong chúa (độ 7, 8 lỗ); 2/ Lỗ nuôi ong đực (độ vài ngàn); 3/ Lỗ nuôi ong thợ (độ 20,000); 4/ Lỗ làm kho chứa mật và nhụy hoa, cũng là nơi dành cho ong chúa đẻ vào mỗi lỗ một trứng.”(5)
Tưởng cũng nhắc qua một chút về tính chất của mật và sáp ong, cả hai đều do ong mật làm ra, nhưng mật ong thì ngọt, sáp ong thì lạt. Do vậy, “người nào ăn nói lạt lẽo, vô vị, sách Nội điển gọi là “tước lạp” (nhấm sáp ong)” (6)

Ong và bông cốc
Ngoài ra, sách Kim Ðài Ký Văn chép: “Xưa có người thấy con ong đá vướng phải mạng nhện, con nhện ra bắt con ong, bị ong đốt cho ngã., một lát lại sống lại. Con nhện bò ra chỗ góc tường đất, lấy chân sau, bới đóng phân trùn đất, đắp vào chỗ vết thương, một chốc lại bò đi khỏe, rồi ra ăn thịt con ong.” Sách Bút Ðàm nói: “Có người thấy một con ong lớn (ong bầu) mắc phải mạng nhện, con nhện bị đốt, sa xuống đất, bụng gần bị vỡ, nhện ta bò thong thả vào đám cỏ, cắn giập thân cây cỏ, rồi đem xát vào chỗ bị thương; xát vào đấy một lúc lâu, bụng nó khỏi.”(7)
Qua hai câu chuyện xưa vừa kể về con ong và con nhện, cho chúng ta thêm những điều đáng suy nghĩ…
Thông thường, mỗi khi nhắc đến bông hoa và ong bướm, người ta thường nghĩ ngay đến nghĩa bóng của nó với nhiều câu ca dao truyền miệng, chẳng hạn như:
“ Vườn có chủ giữ-gìn cỏ chạ,
Hoa có rào ngăn đón bướm ong.”
Hoặc trong Kiều có câu dường như ai cũng thuộc nằm lòng:
“Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về”
Và còn nhiều nữa, những câu thơ hoặc ca dao nhắc về ong bướm, nhưng dưới vòm trời vô tận này và nơi mặt đất bao la kia chính là nơi hội tụ của muôn loài… Giống này có mặt làm cho đời sống giống khác được vui và ngược lại. Chẳng hạn như có nước thời có cá, có trái chín là có chim, có lúa là có bồ câu, có bông hoa là có ong bướm…; nếu có giống này mà không có giống kia thì vũ trụ này sẽ vắng vẻ biết bao!

Ổ ong mật nuôi nhìn từ xa.
Ổ ong mật nuôi nhìn gần với lớp lớp ong thợ đang tha nhụy hoa về làm mật.
Cước chú:
3&4. Trích Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, năm 2006, Chương IX: Phẩm Vật, mục 279, 286, trang 456, 458.
Về ong chúa, ong đực và ong thợ, theo VNTĐ, sđd, có ghi:
Ong chúa: Ong cái có bộ phận sinh dục, mỗi bầy có độ 7, 8 con; khi lớn lên, chúng đánh giết nhau chết hết chỉ còn một con giỏi nhất làm chúa tể bầy ong và sau khi kết duyên với một ong đực trên không trung, về ổ sinh hằng vạn trứng để nở ra ong con.
Ong đực: Ong thuộc giống đực, khi lớn lên, bay rượt theo ong chúa, nhưng lần lượt kiệt sức và rơi chết cả, để còn một con giỏi nhất kết duyên với ong chúa một lần duy nhất trên không trung rồi chết.
Ong thợ: Ong cái không có bộ phận sinh dục, chuyên xây ổ và đi hút mật nuôi ong con.
5. Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, sđd, quyển Hạ, trang 1119.
6&7. Theo Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, sđd, Chương IX: Phẩm Vật, mục 285, 287, trang 458.