Trưa nắng Mỹ Tho
Biên thức giấc thì trời đã sáng bạch. Giấc ngủ rời rạc, chập chờn mộng mị trên bao lơn lầu hai làm Biên không được tươi tỉnh lắm. Thực tình Biên cũng không rõ mình thiếp đi lúc nào, nó nhớ cả đêm đã không ngừng đuổi muỗi. Một tay móc vào lan can, một tay phẩy đuổi đám muỗi mòng vo ve. Nhưng có lẽ chính những suy nghĩ người lớn đầu tiên đêm qua đã làm thằng Biên bần thần. Hồi tối lúc vâng lời anh Ðường lên lầu, Biên đã muốn được tự do một mình viết thư từ biệt bạn bè. Nhưng nó cũng chỉ biên được vài dòng rồi xé bỏ. Nếu chẳng may lại dời ngày đi, trở về Sài Gòn thì ngượng chết! Kinh nghiệm của mấy lần vượt biên hụt khiến thằng Biên quyết định không viết thư từ giã. Nhưng lúc cất bút cùng mẩu giấy, Biên lại nhớ bạn bè nó kinh khủng. Cái phù hiệu học sinh trường phổ thông cấp ba Lê Thị Hồng Gấm, Couvent des Oiseaux cũ, còn đính trên túi áo không kịp thay lúc tất tả từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho như giữ rịt lấy nó với khung trời trường lớp hôm qua. Biên chưa bao giờ hình dung cuộc sống nó thiếu đám bạn thân gặp nhau mỗi ngày từ tiểu học cho đến đệ nhị. Nhưng khác với những lần đi chui trước, trong chuyến đi này Biên bị xúc động dữ dội. Lúc chiếc xe Ford Taunus của ông Hỏa, em rể ông Trương Hồng rồ máy lăn bánh, thằng Biên quay lại bắt gặp mẹ và chị cả nó đứng dưới gốc me ràn rụa nước mắt. Trưa nắng chan chan trên khuôn mặt bà Long và chị Ngân đầm đìa nước mắt, Biên cố níu kéo hình ảnh cuối cùng của mẹ và chị nó đứng khóc trên vỉa hè. Khoảng lề đường vàng kệch xa dần mà Biên còn nắm chặt trong tay miếng bánh dày của chị nó dúi vào tay lúc lên xe. “Mày nhớ ăn sáng trước khi đi học”, chị cả chỉ dặn được nó ngần ấy rồi lặng lẽ khóc. Biên trông thấy lúc đó tất cả những giọt nước mắt ấy. Nó chồm lên kính xe để nhìn mẹ và chị đến phút chót. Ðến ngã tư Hiền Vương–Hai Bà Trưng, chiếc Taunus quẹo trái để vòng xuống Phan Thanh Giản – Ðiện Biên Phủ ra xa lộ rước thêm người, thằng Biên chợt hốt hoảng nhìn khu phố Ðakao nhà nó mờ xa. Bức tường nghĩa địa Mạc Ðĩnh Chi băng trôi vùn vụt, bỏ xa dần mẹ và chị thằng Biên đứng sững lại trong quá khứ vừa thành hình. Ðêm tối trên lan can lầu hai, Biên biết gia đình nó đã sa sút để mẹ không còn nổi một trăm bạc mua vé xe lôi đưa anh em nó đi như nhiều bà xẩm ở đây. Mẹ cũng không làm nổi bữa cơm tươm tất để đãi hai anh em ăn lần chót dưới mái ấm gia đình. Ra đi, thằng Biên chưa ý niệm rõ ràng về ý thức hệ Quốc-Cộng, chưa biết thao thức cho hiện tình đất nước như anh Dzũng và anh Ðường, nhưng nó đã biết phải ra đi để có thể kiếm tiền gởi về nuôi mẹ và chị, mà cảnh túng quẫn đã đập vào mắt.
Thanh thiên bạch nhật, tỉnh lẻ thức dậy với không khí xô bồ, bon chen giành giật hôm qua, làm như không hề gián đoạn bởi màn đêm thê lương hồi tối. Biên là người cuối cùng xuống lầu. Mọi người đã ra hết ngoài sân. Tiếng Quảng Ðông xì xà xì xồ như trong Chợ Lớn. Biên gặp anh Ðường và anh Dzũng ở góc vườn. Lúc đó Ðường hỏi nó có muốn ăn sáng tô mì gì không, thằng Biên lắc đầu mặc dù những chú ba đứng chung quanh làm nó thèm một đĩa mì xào giòn có lần được ăn ở Hải ký Mì gia trong khu La Kai. Thấy em lắc đầu Ðường cũng không ép, hai anh em không muốn tiêu phạm vào số tiền tám mươi đồng còn lại mẹ cho dằn túi. Ngay hôm đầu xuống Mỹ Tho, Ðường đã nói với em ráng đừng ăn quà, khi xuống tàu sẽ gởi tất cả tiền dư về trong bao thư cho nhà. Tám mươi đồng, mẹ có thể đi chợ một tháng. Thằng Biên vâng lời anh, tránh nhìn những gánh xôi chè và bánh cuốn Thanh Trì bên lề. Thấy anh em Ðường không ăn sáng, Dzũng cũng tế nhị không đi ăn một mình, chỉ chạy mua ba ly cà phê xây chừng cho ba anh em. Trong sân Hoa kiều ăn hủ tiếu, chan húp xì xụp.
Gần trưa một chiếc Peugeot 504 sơn trắng đỗ trước cổng. Một viên công an mang kính gọng vàng, đeo đồng hồ Rolex và xách cặp táp Samsonite bước xuống nói chuyện với ông Trương Hồng. Sau đó có lệnh tập họp di chuyển. Không khí tự nhiên nao nức cả lên. “Ði, đi… xuống tàu”. Ba trăm người chia thành mười lăm tổ, đi bộ qua phố chợ xuống bến sông. Ðoàn người đi “xuất ngoại” tay không, theo hàng một. Mười ký hành lý quy định cho mỗi đầu người đã được cân ký cho xuống trước. Trẻ con, bạn hàng bu bám theo cố giành giật khách Sài Gòn.
“Chú, chú, mua thuốc hút chú.”
“Cám ơn có hai bao rồi.”
Dzũng đẩy thằng nhỏ bán thuốc dạo đang dính bên mình. Thằng nhỏ trì kéo, dai hơn đỉa nhất định “thu hoa lợi” mới thôi:
“Có Dunhill và Ba con Năm từ Thái Lan qua nè chú!”
“Ðã nói có mua rồi mà.” Dzũng đẩy thằng nhỏ ra lần nữa.
“Hai bao đâu có đủ. Mua thêm để ‘trữ lượng’ đi chú, đi tàu có khi cả tháng mới tới!”
“Thôi được rồi, nhiêu bao ba số?”
“Tám mươi lăm đồng, chú.”
Không dứt nổi thằng nhãi, Dzũng định mua một gói thuốc để tống khứ đứa cháu ngoan Bác Hồ, nhưng giá thuốc làm anh chới với. Năm 79, công nhân viên nhà nước lãnh có ba mươi hai đồng và sinh viên như Dzũng lãnh có mười tám đồng một tháng. Trước cửa rạp Bến Thành, Mini Rex cũ, giá một gói ba số năm cũng chỉ có bốn mươi lăm đồng. Dzũng cảm thấy chua chát. Bây giờ thì anh hiểu tại sao những người dân ở đây chưa thèm vượt biên. Thêm một loại “ký sinh trùng sống bám phi lao động” nảy sinh từ những tế bào của nền kinh tế mà trên lý thuyết “nặng về sản xuất, nhẹ về cá thể tư doanh”. Dzũng chua chát nghĩ những gì anh học trong trường Ðại học Kinh tế là một mớ giấy lộn.
Ði sau lưng Dzũng, anh em Ðường cũng bị níu kéo, nhưng vì họ không trả lời nên cũng đỡ vất vả mua bán như những người khác. Ðường chỉ ngượng ngùng khi phải đi bộ ngang lòng chợ, thấy dân chúng hai bên đường đang chăm chăm nhìn mình. Khác hẳn sự hồi hộp cải trang, lo sợ bị bắt khi đi chui, Ðường vừa khám phá ra sự yên tâm đến lạnh lùng trong lòng anh. Xen kẽ hàng công an, dân phòng và phường đội, Ðường không tài nào đoán nổi những ý nghĩ trong đôi mắt dân chúng Mỹ Tho, thương hại hay mừng giùm, ganh tỵ hay thông cảm? Những ánh mắt hời hợt, ngộ nghĩnh như đang xem xiệc. Ra đến bến, Ðường vẫn còn thắc mắc.
Một đoàn xuồng máy đuôi tôm đậu san sát nhau, lúp xúp dưới bến sông. Cứ mười người xuống một xuồng chở họ ra cồn. Mặt nước sông xanh lá cây, lấp lánh nhấp nhô theo nắng buổi trưa. Chiếc xuồng của ba anh em chao đi khi ra đến sông lớn. Sóng gờn gợn từng đợt xẻ ra từ những đuôi tôm phía trước đập thùm thụp vào lườn ghe.
“Trời ‘lất’ ơi, sao ghe nghiêng quá ‘chòi”!
Mấy bà xẩm ngồi trong khoang mặt cắt không còn giọt máu. Xuồng chòng chành đến sợ, nước sông bắn tung từng chặp làm ai nấy ướt nhẹp. Mọi người nín thinh nhìn hai bên sông đột ngột tách rời, mở rộng ra thành cửa sông lớn bát ngát. Tiếng máy đuôi tôm rầm rào xoáy át hẳn mọi tiếng động. Thằng Biên trông thấy anh Ðường đang cố quay người nhìn thị xã Mỹ Tho lần cuối cùng sau lưng. Biên chợt nhớ cách đây ba hôm, cũng vào giấc trưa như hôm nay, nó cũng đã xoay đầu nhìn con đường Hiền Vương ngập nắng… Lúc thị xã mất hút thì cái cồn hiện ra, xanh rì im lìm như cái mu rùa nổi bật lên giữa trời trong vắt. Cái mai rùa rõ dần, đến gần cây cối um tùm. Tiếng máy đuôi tôm phụt tắt, trả lại xôn xao của sóng nước. Tiếng nước dập vào lườn gỗ nghe như thúc giục. Mặt nước chênh chao, mấp mênh, làm tăng những phân vân trong lòng mỗi người. Còn chừng hai mươi thước, ông già lái ghe lên tiếng:
“Xuồng không cặp sát bờ đâu, cây cầu bị nước cuốn trôi rồi, bà con chịu khó lội vô bờ đi.”
Mặc kệ mấy bà xẩm phản đối, ông lão lái ghe thản nhiên cắm cọc neo xuồng tại chỗ. Hai mươi thước sông lung linh nắng.
“Ðâu có sâu gì cho cam, nước nông tè tới đầu gối nhìn xuống coi.”
Ông già nói như ra lệnh sau cái nhổ toẹt xuống mặt nước. Thằng Biên chồm người ngó xuống, mặt nước cạn thiệt, nó trông thấy đất mùn với thân cây củi mục dưới đáy. Xung quanh những xuồng khác cũng neo xa xa bờ, không có chiếc nào cặp hẳn vào cồn. Ba anh em Ðường, sau khi vén quần tới bẹn, quyết định nhảy xuống.
Mặt nước vỡ tung lúc thằng Biên rơi tõm xuống sông. Sức rơi nhận nó lún xuống sình tới đầu gối. Hốt hoảng Biên đạp tứ phía cố rút chân lội vào bờ. Nhưng nó giẫm xuống một mặt sình lỏng khác, lần này lún tới đùi. Mặt nước trở nên đục ngầu vì đất mùn bị khuấy động. Càng cố đi tới Biên càng lún sâu xuống, lúc này thì nó đã ở nguyên người trong sình lún tới bụng.
“Chúa ơi! Anh kéo giùm em với, chết mất!”
Một người cùng nhóm đã lên được bờ, trườn người vươn tay kéo thằng Biên lên cồn.
“Sợ một mẻ hả em?”
Thành, tên người đàn ông, cười vỗ vào vai thằng Biên còn chưa hoàn hồn. Dzũng và Ðường cũng vừa lên tới bờ, người ngợm họ dính đầy sình.
“Nông tà tới đầu gối thôi hà!”
Dzũng cằn nhằn mỉa mai. Mọi người vội vã đi kiếm nước rửa chân. Mùi sình tươi nhờn nhợn, tanh tanh làm ai nấy váng vất. Dân thành thị đâu có quen lội bùn. Những chiếc xuồng máy đuôi tôm tiếp tục thải người lên bờ. Sình dơ dính nhơm nhớp bó lấy ống quần nên mạnh ai nấy túa đi tìm nước rửa chân. Không ai muốn trở ra vũng nước đục ngầu bùn lầy, đầy ối người đang ngụp lặn lội vô cồn nên họ ùa nhau ra những lạch nước gần đó.
“Ê, ai cho mấy người ăn cắp nước ở đây.”
“Tụi tôi xin chút nước.”
“Muốn mua nước thì đưa tiền đây, một đồng một lon gui-gô. Thằng nào tự tiện tao dộng bể mặt!”
Những người dân trên cồn đứng chực sẵn hai bên con lạch, người vác rựa, kẻ đòn gánh, toàn dân dao búa. Trong lúc nhóm người Việt đăng ký kỳ kèo xin trả giá năm mươi xu một lon, những Hoa kiều lên sau vung tiền ra mua nước. Mấy bà xẩm mua đong cả thùng phuy tắm gội ngay tại chỗ. Ðường nghĩ chính cách xài tiền phí phạm này của Hoa kiều đã thúc đẩy những người lái ghe hồi sáng toa rập với dân trên cồn, bắt bọn Ðường lội sình để bán nước. Anh và đứa em, số tiền còn dư đã gởi về cho nhà, chỉ còn đúng mười đồng phòng thân nên chỉ dám mua hai lon guigoz rửa qua loa. Thằng Biên cởi phăng quần dài xanh, mặc xà lỏn phơi chân trần ướt nhèm nhẹp, mọi người lại bàn nhau mượn chiếu trải nằm đỡ, vì đến tối tàu lớn mới ra.
“Chiếu lớn mười bốn đồng một giờ, chiếu nhỏ tám đồng.”
Chị đàn bà quấn khăn rằn kiểu “Nguyễn Thị Ðịnh” thản nhiên đáp. Dzũng vừa đếm tiền vừa bực tức:
“Coi quê mùa vậy chớ máy chém hiện đại dữ.”
Nhóm của Ðường bây giờ thêm anh em anh Thành, cựu thiếu úy bộ binh. Cả bọn hùn tiền mướn một chiếc chiếu nhỏ đủ đặt mông cho sáu người. Lát sau có thêm anh Vĩnh, cựu trung úy Thủy quân Lục chiến và chị Lan em gái anh nhập bọn. Rồi thêm chị Hương với hôn phu là anh Công. Thời gian mướn chiếu được kéo dài ra theo tiền quyên góp của những người đến sau. Buổi chiều 29 ở trên cồn, nhóm người Việt ít ỏi này tách rời ra khỏi tập thể người Hoa đang tiêu xài cho hết những đồng bạc “Cụ Hồ” sắp trở thành vô giá trị. Thật ra cũng còn nhiều gia đình Việt mua giấy khai sinh giả khác nữa, nhưng nhóm của Ðường trẻ nhất và quy tụ phần lớn độc thân nên họ dễ dàng thành bạn nhau. Ðường, Dzũng và Công – đang học năm chót ở Tổng hợp, nói chuyện về tính biến dị tập nhiễm từ môi trường ngoài theo học thuyết Darwin, giải thích hiện tượng “thỏa hiệp” của một số bạn bè kết nạp đoàn viên Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, rồi họ cùng nhau tính xem trong số mười hai cây vàng đóng giá người lớn cây nào là “cây giá trị thặng dư”, họ cũng đố nhau giải vài bài toán còn nhớ trong cuốn Toán Cao cấp và bàn về dự tính theo đuổi việc học ở xứ người. Anh Vĩnh và anh Thành kể chuyện đi cải tạo của họ, nhắc những kinh nghiệm đau thương chiến tranh. Chị Hương và chị Lan tâm sự đàn bà với nhau, cả hai đều mừng vì không bận bịu gia đình con cái trong hoàn cảnh hiện tại. Thằng Biên mừng như bắt được vàng từ khi gặp Phương, em út anh Thành và Tuân, em chị Hương. Cả hai đều bằng tuổi nó, cũng vừa học xong lớp 11. Tuân học Chu Văn An sau giải thể đổi sang Lê Hồng Phong, Pétrus Ký cũ, Phương học ở Nguyễn Thị Minh Khai, Gia Long cũ. Ba tên con trai mới lớn hăng hái nhắc chuyện thầy cô, trường lớp và phê bình đám nữ sinh bạn gái đầu tiên của chúng. Lâu lâu Biên nhìn xuống chân còn dính bùn khô, chợt nẩy sinh ý nghĩ lãng mạn là ra đi đem theo sình lầy của quê hương. Chỉ có Hoàng, em kế Thành là cô đơn hơn hết, anh lớn tuổi hơn Công, Dzũng, Ðường và cũng không còn đi học, nhưng lại nhỏ tuổi hơn các anh Vĩnh, Thành, chưa bao giờ đi lính. Buổi trưa nắng chói chang vỡ rợp từng mảng da trời, ngồi dưới tàu lá chuối xanh rờn trên đầu Hoàng thấy lạc lõng không tìm ra thế hệ của mình, lạc lõng như cồn nước lợ nổi chơ vơ giữa dòng sông.