Menu Close

Đoạn kết không có trong truyện

Ðọc những gì tôi đã viết, chị nhận xét, đại để tôi viết những gì ở đâu đâu, chẳng ra ngọn ra ngành, chẳng ra bắp ra khoai, đầu thì Ngô mình thì Sở… Chủ ý chị cho rằng, cậu em nhà văn nhà thơ gì gì đấy của chị không đủ khả năng viết một câu chuyện. Tôi thừa nhận chị nói đúng. Dù sao cũng có lần tôi muốn viết một câu chuyện để tặng chị. Một chuyện thật của đời chị không chừng hay hơn những gì tôi tưởng tượng.

o O o

Chị Nhã, tên và người đều đẹp. Tôi không rõ chuyện tình của chị, nhưng tôi biết chị đã chấm dứt ước mơ của vô số chàng trai vào năm chị mười bảy tuổi. Ðầu năm 1975, chị lấy chồng. Anh ta hơn chị vài tuổi, là thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến, sống chung với chị trong căn nhà gỗ khá đẹp trên bờ kênh Thị Nghè, tổng cộng được khoảng một tháng. Sau biến cố lịch sử 30-4-1975, có người trở về cho chị biết đã gặp anh Hợp lần cuối cùng ở một bãi biển miền Trung. Anh chen chân lên tàu trong cảnh hỗn loạn, giữa những loạt đạn nổ tứ tung. Người đưa tin tỏ vẻ ngập ngừng trước ý định nói rõ rằng anh Hợp đã trúng đạn, chết khi tàu vừa nhổ neo. Viên đạn từ khẩu súng của một người lính nào đó trong đám tàn quân không thể leo lên tàu. Nhưng đấy là nhận xét của tôi, chị Nhã không thấy như vậy. Chị vẫn chờ đợi ngày anh Hợp trở về. Nhiều năm sau, chị vẫn chờ đợi; có lẽ chị chờ đợi thư của anh Hợp đột ngột gửi về, từ hải ngoại. Một lần tôi hỏi chị:

– Anh Hợp có trở về báo mộng cho chị biết điều gì không?

Chị không trả lời. Hiển nhiên chị giận tôi. Nhưng đấy là một thoáng giận, gương mặt đẹp sẫm xuống, đôi môi đều đặn mím chặt. Còn tôi, tôi đã lặng lẽ giận chị, trong ý nghĩ: chị trói mình vào một người chỉ còn là hình bóng hư huyễn. Một hình bóng thì làm sao có hơi thở đời sống. Tôi giận vì chị bất công với chính mình, giận đến nỗi tôi cho rằng chị mê muội, tự hủy mầm sống vẫn chờ được nảy sinh. Tôi không hiểu người chị mà tôi đã sống gần gụi từ lâu, lại giống người chị trước mắt tôi, lãnh đạm u hoài như vậy.                                                                                                             Có một thời gian chị sắm xe đẩy bán thứ trái cây xẻ ngâm nước đường. Tôi nghĩ thứ hàng này chỉ bán được cho người bình dân, học sinh nhỏ tuổi… Chị đậu xe ở một địa điểm, vài tiếng đồng hồ sau đã bán hết. Khách hào hoa phong nhã thuộc giới thượng lưu ở sân quần vợt gần đó lui tới tấp nập. Tôi nói với chị:                                                                                                                                            – Họ ăn hàng của chị bằng mắt đấy.

Chị bảo, có chàng nói chị sinh ra không phải để bán trái cóc, trái ổi.                                                                        

– Thế chị trả lời ra sao?

– Chẳng trả lời gì cả.  

Tôi đoán chị Nhã chỉ mỉm cười, nụ cười vốn đẹp của chị. Chị nói tiếp:                                                            

– Chỉ định nói: còn anh sinh ra đã cầm cây vợt trong tay.

Việc chị sinh ra không phải để bán trái cóc trái ổi chỉ là một kỷ niệm nhỏ nhặt khi tôi tới ở chung nhà với chị. Tôi có nơi trú ngụ yên ổn, còn chị đỡ quạnh hiu. Chúng tôi mở quán cà-phê; cái sàn gỗ de hẳn ra dòng kênh có lan can bao quanh, trở thành một thứ “quán thủy tạ” nên thơ. Nhưng tôi biết rõ, chị Nhã là lý do chính thu hút khách lui tới bằng vẻ đẹp lãnh đạm u hoài.

Chị Nhã hơn tôi ba tuổi, nhưng hình như ai cũng ngỡ tôi là “anh hai” của chị. Dù sao, không cách này thì cách khác, người ta nhận ra mình ngày một già. Tôi thầm hỏi, không biết chị có nhận ra như vậy?

Cái vẻ chẳng-có-gì-đâu trên gương mặt, ở cử chỉ lời nói của chị, không làm nản lòng những chàng trai; từ những chàng đáng tuổi em út của chị, đến những chàng lớn tuổi ngang bằng. Họ dù có vợ chăng nữa, vẫn thấy mình độc thân trước người phụ nữ xinh đẹp. Cũng giống những tay chơi quần vợt trước đây, họ uống bằng mắt hằng giờ, ly cà-phê nguội lạnh như vẻ đẹp lãnh đạm u hoài của chị Nhã.

Anh Long là người ở gần nhà, chỉ thảng hoặc tới quán, khoảng cách như định kỳ trên dưới hai tháng, xuất hiện trong ba bốn ngày liền. Tôi không biết anh Long tới quán vì khung cảnh hay vì nhân vật, anh lặng lờ khó hiểu. Hóa ra, anh là người ưa thích buổi trưa. Anh uống chậm rãi ly cà-phê đen không đường, hoặc ly trà Lipton, trong giấc lừ đừ của giờ ngọ. Chị Nhã, thường khi ấy ngồi sau quầy, xem sách gì đấy hoặc những trang tôi viết.

Anh nói về những buổi trưa ở tỉnh, những buổi trưa giống như những buổi trưa ở nơi này, trên quán gỗ bờ kênh Thị Nghè. “Thời gian im sững như bị thôi miên -anh nói-, nắng trong suốt như không hề có. Vậy mà người ta bị mê hoặc vì cái sức hút vô hình. Chỉ những ai cực kỳ yêu đời, hay cực kỳ chán đời, mới ưa thích buổi trưa.*

Tôi hỏi anh

– Vậy anh cực kỳ yêu đời hay cực kỳ chán đời?

Anh ngó lơ đãng ngoài dòng kênh

– Hai cực ấy cách nhau chỉ một cái rãnh hẹp. Có lúc ở bên này, có lúc ở bên kia, một bước chân. Tôi biết anh làm việc nơi xa, vùng Xuyên Mộc, nhưng không rõ anh làm việc gì. Tôi hỏi, anh trả lời gọn:  

– Làm nghề rừng.

– Làm nghề rừng là làm gì?

Anh nhìn tôi ngạc nhiên, như thể tôi hỏi ngớ ngẩn. Anh nói:

– Làm nghề rừng là làm ở trong rừng, cái công việc có liên quan tới cây rừng.

Rành mạch, rõ ràng như một câu định nghĩa, nhưng tôi càng không hiểu anh làm gì ở trong rừng. Vậy mà chị Nhã chẳng hồ nghi: anh Long làm nghề thợ mộc! Chị nhờ anh sửa cái xe đẩy bán trái cây xẻ ngâm nước đường hồi trước, thành cái chạn đựng chén dĩa, thức ăn. Cách chị ngỏ lời thật giản dị, như mướn một người thợ mộc nào đấy. Tôi ngạc nhiên, và không phải là tôi đã không có chút buồn rầu. Trong thâm tâm, hay từ vô thức, tôi mong có sợi dây liên hệ giữa hai người.

Một bức thư gài giữa hai mối lạt ở mái lá che trên sàn nước gần bếp nấu ăn, tôi gỡ xuống xem, thấy đã được đọc rồi, bì thư xé ở mép lam nham. Ðịa chỉ người gửi ở góc bì thư: Nguyễn Hoàng Long. Số nhà… đường… thị trấn Xuyên Mộc. Lá thư xếp trở lại trong đó không ngay ngắn thẳng tuột. Bì thư cũng nhàu. Tôi biết chị Nhã đã đọc chỉ vì nó được gửi tới chị.

Anh Long viết:

Chắc hẳn chị sẽ ngạc nhiên khi nhận thư tôi, nhưng tôi thì không, bởi vì chẳng phải tự nhiên tôi viết gửi chị, dù bức thư tới tay chị đường đột. Những gì tôi viết ở đây đơn giản, nhưng nó được viết ra sau nhiều ngày tháng băn khoăn.

Tôi có về nhà, tuần trước, nhưng không sang quán cà-phê. Chân tôi như quen, muốn sang, nhưng tôi tự kìm giữ lại. Vậy tôi đã nghĩ gì? Tôi ngồi chưa ấm chỗ, cha mẹ tôi hỏi ngay bao giờ tôi ở yên, không lang bạt nữa. Tôi sững người. Tại sao ư? Tôi nghĩ, giá mà…

Éo le thay, chị vẫn chờ anh Hợp. Chị Nhã ạ, tôi dám chắc anh ấy chỉ còn là một kỷ niệm. Còn tôi, chỉ vì lòng tự trọng, tôi cố kìm những thôi thúc tình cảm.                                                                                                     Tôi viết thư này, thay những bước chân sang nhà chị. Hiện tại đang mở ra lối nẻo mới lạ.

o O o

Dĩ nhiên bức thư được gài lại giữa hai mối lạt ở mái lá. Chị Nhã lại thêm lần nữa xác nhận ý kiến của mình về truyện ngắn tôi viết. Chị bảo:

– Ðúng là cậu viết những gì đấy về tôi, nhưng vẫn chẳng ra một câu chuyện. Cái truyện cậu viết… diễn tả thế nào nhỉ?… Giống đứa bé được dặn đi làm việc gì ở đâu đó. Dọc đường, nó cứ nhẩn nha, như vô sự… Rồi mải những trò vui gặp trên đường, nó quên việc được dặn làm. Lại thêm cái bức thư khơi khơi, lơ lửng ấy nữa… Thật kỳ cục!

Lần này tôi ngạc nhiên nhiều hơn thất vọng, dù rằng lần này là chung cuộc nhận xét của chị Nhã về việc viết truyện của tôi, cho tôi nghi ngờ mình không có khả năng viết một truyện ngắn truyền thống.

Tôi ngạc nhiên trước vẻ mặt tư lự, ánh mắt xa xăm của chị. Ðứng bên chiếc bàn sát lan can, bàn anh Long vẫn ngồi uống cà-phê đen không đường hoặc trà Lipton, chị ngó bè rau trôi lửng, đám rác rưởi tấp tụ, chia rời trên dòng kênh. Một lúc nào đấy tôi nghe tiếng chị:

– Ðây đi Xuyên Mộc bao nhiêu cây số nhỉ?… Chị có người bạn ở đấy… Bạn gái. Chị ấy có tiệm may ngoài thị trấn. Chị ấy…

Tôi chưa bao giờ nghe nói chị Nhã có người bạn gái nào ở vùng rừng Xuyên Mộc. Tôi nhìn chị, vẻ mặt chị sao đó; chị vụt dời chỗ, đi vào bếp có mái lá rộng che cả sàn nước. Tiếng chị vọng ra:

– Ơ… cậu không ăn cái bánh à?… Chắc lại để dành cho con Lucky của cậu.                                                                

Những sự kiện này ở ngoài truyện ngắn tôi viết tặng chị Nhã. Truyện đã kết thúc với bức thư khơi khơi, lơ lửng, như chị nhận xét.

alt

Thắm Nguyễn

N.Đ.
* Ý tưởng của Cioran