Trong bài viết ngắn ngủi chưa đầy ngàn chữ, không thể giới thiệu hết những gì có trong Ước Vọng Duy Tân – Tuyển Tập Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn Học của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh do Trần Uyên Thi chủ biên. Ngoài bốn phần chính chia thành từng đề mục rõ ràng, quyển sách còn có phần Cảm Tạ, Phàm Lệ, Vì Sao Có Sách Này… Từng trang sách được biên soạn cẩn thận, lay out đẹp, chính tả rõ ràng, cho thấy dụng tâm của cô Trần Uyên Thi – người chủ biên – khi trình bày những điều tâm huyết của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, vị thầy khả kính có rất nhiều học trò. Dưới hình thức vấn đáp – một câu hỏi ngắn gọn được đặt ra, khơi nguồn cho câu trả lời chi tiết, có trích dẫn tỉ mỉ. Thí dụ như câu: Thưa Giáo Sư, văn hóa khác văn minh như thế nào? Câu hỏi chỉ có mười một chữ, nhưng câu trả lời dài hàng hà sa số chữ, nhằm giúp người đọc hiểu và phân biệt được thế nào là văn minh thế nào là văn hóa.
Văn hóa và văn minh là hai mặt của cùng một cái. Khi người sơ khai bắt đầu sống cố thổ, vào nông nghiệp rồi, thì dẫu rằng chăn nuôi, trồng lúa, trồng cây cũng phải có ruộng có đất. Họ cố thổ dần dần, không đi đây đi đó để săn bắn nữa. Tâm thần (mentality) thay đổi cách thâm trọng cùng với nếp sống. Họ chia ra thành từng khu vực, từ đó phải tìm hiểu khu vực ra bằng một ngôn ngữ khác (ngôn ngữ huyền thoại)… [Trang 23]
Ngay cả mô hình bánh chưng đời Nhà Hùng cũng được ghi chép tỉ mỉ:
Ba cái lạt ngang và ba cái lạt dọc phân mặt bánh thành 16 ô. Mười hai ô ở bìa là ruộng tư, của dân: sự trồng trọt cũng như sự mua bán đều tự do; người dân có sở hữu mặt đất xanh tươi với lúa, với rau và hoa mầu. Ở giữa có bốn ô là ruộng công: học điền (giúp đỡ trẻ em làng đi học), trợ điền (giúp người nghèo trong làng, trợ cấp người già cả đau yếu và những người lỡ độ đường), lễ điền (để lo việc thờ cúng cầu an) và công điền theo nghĩa hẹp (việc thông tin, an ninh, trông nom nghĩa địa…v.v…) Sự sở hữu không phải chỉ ở mặt đất mà còn đi sâu xuống lòng đất là tầng nhân và dưới nữa, thí dụ như những mạch nước ngầm [Trang 37]
Giáo sư Trần Ngọc Ninh sinh năm 1923 tại Hà Nội. Ông theo học Y Khoa tại Hà Nội, sau đó sang Pháp du học, đỗ bằng Thạc Sĩ Y Khoa năm 1961 tại Pháp. Khi về nước, ông thực hiện hai công trình Y Khoa giá trị là Khoa Giải Phẫu Xương và Giải Phẫu Trẻ Em [Phẫu Nhi (Pediatric Surgery) và Phẫu Khoa Trực Nhi (Orthopedic Surgery)] đầu tiên tại Việt Nam. Ông được xem là “khúc xương sống” của Y Khoa Miền Nam; cũng như từng giữ chức vụ Tổng Trưởng Văn Hóa Xã hội, Ðặc Trách Giáo Dục, trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (1966-1967).
Bên cạnh công việc chuyên môn và giảng dạy về Y Khoa, Giáo sư Trần Ngọc Ninh còn có nhiều công trình khảo cứu thuộc Văn Hóa, Văn Minh, Ngôn Ngữ Và Văn Chương, chẳng hạn như Những Vấn Ðề Văn Hóa, Giáo Dục, Xã Hội (1966), Văn Hóa Dân Tộc Trước Những Nhu Cầu Của Ðất Nước 1969), Ðức Phật Và Sự Cải Tạo Xã Hội (1971), Ðức Phật Giữa Chúng Ta (1972). Năm 1974, Giáo Sư in xong quyển thứ ba của bộ Cơ Cấu Việt Ngữ đồ sộ (dự trù là 8 quyển) thì miền Nam sụp đổ. Bộ sách này khảo cứu ngữ pháp Việt Ngữ bằng cơ-cấu-pháp (structuralism), lúc ấy hãy còn là một trào lưu mới mẻ đối với Ngữ Lý Học (Linguistics)Việt Nam. Trong lãnh vực này, Giáo Sư là người đi tiên phong (khai sơn phá thạch). Cho đến nay, cả trong lẫn ngoài nước, vẫn chưa có một công trình về Ngữ Pháp Việt Nam thứ hai dựa trên cơ-cấu-pháp, ít nhất với tầm vóc tương xứng với bộ Cơ Cấu Việt Ngữ. Những tác phẩm nổi tiếng viết ở hải ngoại Tuyết Xưa (2002), Tố Như và Ðoạn Trường Tân Thanh (2002)…
Ðể có thể hiểu từng vấn đề về văn hóa, huyền thoại, văn học sử được in ấn trong Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh, phải nhẩn nha từ tốn đọc như tác giả chậm rãi phân tích, giảng giải mới có thể thu thập được tinh hoa gói ghém trong quyển sách dày 434 trang. Vài giòng giới thiệu ngắn gọn chỉ là chấp bút tạo thành duyên, để những tâm hồn yêu văn học tự tìm đọc Ước Vọng Duy Tân lắng nghe ý niệm từ tư tưởng sinh hoa kết trái, và lãnh ngộ sự trác tuyệt có trong Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh.
