Bãi ngầm Trường Sa
Buổi sáng 2 tháng 6-1979, sau bốn ngày lênh đênh trên biển, chiếc tàu đăng ký số MT-603 bị mắc cạn giữa một vùng san hô. Mặt đại dương bừng sáng phơi bày một xác tàu trơ vơ giữa trời nước lấp lánh, trông nửa thê thảm, nửa kỳ cục. Biên bơi chưa giáp vòng tàu thì tìm được anh Ðường và các bạn chung thuyền. Nắng lên vàng ối khiến mọi người nhận ra màu nước khác biệt. Khúc biển sâu sau đuôi tàu, nước xanh cẩm thạch chuyển dần sang màu mạ tái nhạt ở chỗ xác tàu bị cạn về phía trước. Chừng như chỗ biển cạn đằng mũi rộng và xa lắm vì màu mạ dài ra đến tận chân trời. Ðám thanh niên bàng hoàng gặp lại nhau sau tai nạn.
“Trời ơi, anh lo cho mày quá.” Ðường bơi đến chỗ Biên.
“Em không có sao, chỉ trầy sơ. Anh làm sao nhảy ra kịp vậy?”
“Anh choàng tỉnh lúc boong sập, chen được ra tới cửa khoang thì bị hất xuống biển.”
Ðường bơi bì bõm, cũng nổi trong chiếc áo phao hải quân Mỹ giống của em mà bà Long đã mua cho cả hai ở chợ trời Nguyễn Tri Phương. Ðường không dám kể cho em nghe đã nằm mơ thấy mẹ lúc gần sáng, giấc mơ còn ám ảnh anh.
“Chết rồi ông ơi, tàu mắc cạn làm sao ra?”
Dzũng bơi lóp ngóp bên cạnh hai anh em, thều thào. Bốn trăm thuyền nhân bây giờ bì bà bì bõm quanh xác chiếc MT-603. Mực nước không sâu lắm, chỉ đến ngực thằng Biên, có thể đứng được nhưng mọi người bị sóng bạt sấp ngửa. Những cạnh san hô bén đâm tua tủa vào chân mọi người. Nước biển mát rượi, trong những phút đầu làm tỉnh táo bầy thuyền nhân nhơ nhớp, dơ dáy mấy ngày qua. Tiếng bàn cãi về tai nạn hồi sáng, đủ mọi ý kiến được đưa ra để cứu tàu.
“Boong sập mà chỉ có mười chín người gẫy tay chân, bị thương là mình may mắn lắm, Phật trời độ trì cho mình đó!”
“Mấy người bị thương đâu?”
“Cất trong cabine đằng lái…”
“Tài công tính sao? Ðù m. Lái cái con c. gì đâm vô san hô, bộ không có la bàn, hải đồ sao?”
“Có, nhưng lúc đụng là thằng tài công phụ lái!”
“Ðụ m., nghe nói có mấy tay sĩ quan hải quân hoa tiêu cũ đâu?”
“Tôi đây! Nhưng cha Trương Hồng đâu cho tôi lái, lúc đụng tôi nằm dưới hầm mà!”
“Ðụ m., bây giờ làm sao đây?”
“Nếu căn cứ trên độ đậm nhạt của biển, tàu bị cạn vào sâu san hô chỉ khoảng hai mươi thước, phía sau chân vịt còn là biển sâu.”
“Mình hợp sức đẩy tàu đi, có ‘sức đẩy Archimède’ cũng không tới nỗi nào!”
Sau cơn biến động cấp thời, tài công và chủ tàu cố gắng nắm lại quyền điều khiển. Ông Trương Hồng bắc loa trấn an mọi người và kêu gọi ai nấy tập họp theo từng tổ đã chia như lúc đi. Phải hợp sức, bằng mọi giá đẩy tàu ra biển lại. Mười lăm tổ thuyền nhân chia ra hai bên hông, mỗi bên bảy tổ. Ðằng mũi một tổ lực lưỡng nhất. Trong cabine ngoại trừ tài công, thợ máy và những người bị thương, tất cả xuống hết biển. Trong lúc gấp rút, ông Trương Hồng quên mất đám người công an gửi theo, họ không được chia tổ và cũng không có ai chỉ huy, bơi lớp lớp chung quanh.
“Ðàn bà con nít tránh ra, thanh niên chịu vai vào lườn tàu. Ðếm một hai ba rồi đẩy! Một, hài… Ba! Một, hài… Ba! Hò dzô! Hò dzô!”
“Cố lên, cố lên nữa! Hai, ba… lên!”
“Dzách, dzì… xám! Úng xuyền! Úng xuyền!!”
“Ðù m., mấy thằng kia sao không đẩy?”
“Ngộ “lẩy” mà…”
“Ðù m. đẩy thì đẩy đừng có vịn!”
“Một, hài… ba, dzô ta!!”
Ðám thuyền nhân lấy hết sức bình sinh, những người đàn ông và cả lũ thiếu niên như Biên, Tuân, Phương gồng bắp thịt lấy hết gân, bấm chân xuống san hô cố đẩy lui chiếc tàu ra khúc biển sâu. Nhưng không đòn bẩy, không điểm tựa, không thể xuống tấn với nước ngập đến ngực trên những mỏm đá ngầm bén, sức người đành chịu thua những đợt sóng từ khúc biển sâu vập vào con tàu. Cho đến quá trưa, Ðường và những người đàn ông đem hết sức lực ra đẩy tàu nhưng chiếc MT-603 vẫn nghiêng sang bên và trơ ra không nhúc nhích. Khi mặt trời đứng bóng rồi ngả chiều, thủy triều rút dần, cả một vùng san hô nổi lên lởm chởm. Mọi người rợn da gà nhìn bãi san hô bọc xác tàu rộng đến chân trời. Mực nước rút đi cấp kỳ, chỉ còn lưng mắt cá chân. Ðường nhìn xác thuyền thoi thóp, vật vã, anh đành chấp nhận ý nghĩ khủng khiếp: dung tích nước biển trong vùng san hô quá ít, không tương xứng với trọng tải tàu đủ để tạo nên lực đẩy Archimède. Dzũng, Công, anh Thành, Vĩnh cùng chung suy nghĩ ghê rợn này. Nếu không có phép lạ, xác tàu MT-603 nặng nhiều tấn không thể ra khỏi nơi đây.
Nắng hoàng hôn thắm đỏ đại dương. Lúc này đám thuyền nhân thấm mệt mới thấy lạnh, tay chân họ nhăn nheo vì ngâm nước quá lâu, không ai bảo ai tất cả rùng rùng leo lên xác tàu mặc bọn thủy thủ ngăn cản. Gió chiều lồng lộng thổi, quất từng cơn lên những thân hình kiệt lực. Chen lấn lên được tới boong, Ðường bải hoải thấy không còn đủ sức để tiếp tục lục lạo lương thực rơi rớt trên tàu như mọi người đang hối hả làm. Ðường ngồi bệt xuống một góc boong, để mặc em cùng các bạn xoay sở. Boong tàu vẫn nghiêng lệch. Nắng quái soi đỏ rực một cách kỳ cục lên đám người nhốn nháo, đang chụp giật nhau những chất sống cuối cùng. Ðường vén quần, hơ chân dưới nắng, hai bắp đùi và hai gan bàn chân anh rách nát, những vết cắt không máu, rịt kín và thâm tím. Ðường không thấy đau, chỉ nhức nhối ngầm.
Biên xuất hiện, giọng nó chua chát.
“Tụi thủy thủ với chủ tàu tịch thu hết thực phẩm, em lẹ chân mới chụp được mấy thứ này.”
Biên vứt xuống trước mặt Ðường bịch cơm sấy, một bao chuối khô với một bình thủy nước trà. Ðường bỡ ngỡ nhìn em, mới một ngày hoạn nạn nó đã sạm nắng, mặt mũi trông du đãng. Những người trong nhóm lục tục trở về, vẻ mặt chán ngán.
“Ðù m., thức ăn tụi nó cất riêng hết rồi bây ơi. Anh Vĩnh văng tục. Mà đếch cần, còn kẹt đây chừng hai tuần nữa thôi là chết hết cả đám. Cho tụi mày ăn!”
Nhóm Ðường chia nhau bữa ăn ít ỏi. Không ai biết sẽ ăn gì bữa mai, bữa sau… Những khuôn mặt trệu trạo nhai. Dzũng vừa nuốt chuối khô, vừa phơi những điếu thuốc nhăn nhúm, ướt nhẹp. Chị Hương, chị Lan, Hoàng, Phương, Tuân cắn từng miếng củ sắn nhai cả vỏ. Thành, Vĩnh, Công chia với mọi người chút cơm sấy. Chưa đầy 24 giờ từ khi gặp nạn, đám thanh niên đã thay đổi hẳn, lầm lì và mất sự tươi trẻ. Trên nền Thái Bình Dương, ngọn lửa kêu cứu đã được thắp lên giữa tàu bằng những phao bánh xe đốt cháy. Khi mặt trăng ném thứ ánh sáng xanh xao xuống lòng biển đen như mực, đa số đã ngất đi trong giấc ngủ mệt lả. Vầng trăng trên boong xiêu lệch, tan vữa.
o O o
Ðến sáng ngày hôm sau, mùng 3 tháng 6, thì 15 tổ đăng ký ban đầu hoàn toàn tan rã. Không ai theo ai nữa. Nhóm Việt Nam tụ lại quanh những cựu sĩ quan Cộng Hòa mà anh Lý có thời làm hoa tiêu phó cho tuần dương hạm HQ-16 Trần Khánh Dư, được tín nhiệm làm đầu đàn. Nhóm Hoa kiều đại đa số vẫn theo ông Trương Hồng. Một số khác không theo ai, sinh hoạt riêng biệt và cũng không phụ đẩy tàu. Số người xé lẻ này chỉ lo săn tìm thức ăn bị ném xuống biển hôm qua và chia nhau canh gác những bao bị ôm khư khư từ lúc xuống tàu. Ðường đoán là những bao vàng. Anh Lý đề nghị hạ cột buồm làm đòn bẩy và cử hai toán tình nguyện lặn xuống dùng búa đập phá những mỏm san hô ngầm quanh chân vịt. Ðàn bà và thanh nữ cũng phụ đẩy. Ðám con nít bám vào những chiếc phao trôi nổi xung quanh.
“Một, hài… ba, lên!”
“Một, hài, ba… hựựựự!!!”
Chiếc MT-603 tưởng đã lên được lại nghiêng sang trái. Ðợt sóng dập bất ngờ làm nhóm bẩy đòn bẩy ngã chúi. Mất thế chống, xác tàu đổ nghiêng như cũ. Dzũng, Ðường ở tổ chống lóp ngóp đứng dậy, biển ngập đến cổ khiến họ xoay trở khó khăn, sức lực bị phát tán vào trong nước. Ðã vậy những cạnh san hô dưới chân làm rách toét thêm các vết thương cũ.
“Hò dzô…”
“Một, hai… ba, lên! Một, hai, ba… hựựựự!!!”
Răng nghiến lại, gương mặt méo mó căng ra, nhíu vào, nhàu nát vì cố gắng, không có mấy tiếng chửi thề nữa, ai nấy như muốn tiết kiệm sức. Chỉ có những ánh mắt khinh bỉ, ném về bọn người giữ vàng vẫn điềm nhiên an tọa trên đám phao gần đó.
“Một, hai… hựựựự!!!”
Có lúc, mọi người tưởng chiếc tàu đã nhích được nửa thước, rồi một thước, nhưng thật ra mặt nước đầy đánh lừa cảm tưởng đó. Buổi chiều, khi san hô nổi lên như con thủy quái lởm chởm, tất cả nhận ra chiếc MT-603 vẫn ở nguyên vị trí cũ. Anh Lý đành buông xuôi:
“Không ra nổi đâu, chờ mai may ra thủy triều lên cao hơn.”
Ðám người lao lực nhìn anh chờ đợi thêm một lời phán. Anh Lý cúi gầm mặt:
“Tôi nghi mình kẹt trong bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa giữa đường từ Cam Ranh sang Phi Luật Tân. Vùng san hô này rộng mấy trăm hải lý không có tàu bè nào dám đến gần, từ khúc này đến Phi cũng còn bốn, năm ngày hải hành, mình chưa đi được nửa đường!”
Ráng chiều rơi vàng vọt trên những gương mặt đầm đìa. Bầy người thúc thủ lại kéo nhau trèo lên cái xác tàu tả tơi qua đêm. Những đám mây lo lắng đêm trước như nhiều hơn, đen tối hơn và bắt đầu nặng trĩu sợ hãi.
Lời phán của anh Lý mang dấu hiệu chết chóc cho những ngày tiếp đó. Buổi sáng đầu tiên nghe tin có người chết, nạn nhân là người đàn bà bị gẫy xương sống khi boong sập và một đứa bé sơ sinh kiệt sức, thằng Biên còn hối hả chạy ra xem hai cái xác được cột trên mảnh gỗ thả nơi khúc biển sau đuôi tàu, cho trôi ra ngoài xa. Về sau, mỗi sáng mở mắt dậy đều có vài người chết vì kiệt lực, vì xuống tinh thần, hay do rơi ngã xuống biển chết đuối ban đêm, nó không buồn ra xem nữa. Tuy nhiên Biên bị ám ảnh bởi hai cái xác của một ông già và một đứa bé cùng chết trong lúc động kinh. Cái bụng của ông già Tàu chướng lên như phụ nữ mang thai trong khi xác của đứa bé teo lại. Gia đình chủ tàu thắp nhang khấn vái liên tục, mùi nhang u uất phả từng lúc trong khoang. Ông Trương Hồng thổ huyết và nằm liệt trong cabine. Mỗi ngày qua, số người đẩy tàu ít đi, cùng với tổng số nhân mạng giảm dần. Trên những phao bánh xe và thùng phuy thả trôi ban đầu ghi 394, 391, 389 rồi mới đây nhất chỉ còn ghi 384! Ðến ngày 7 tháng 6, đúng một tuần từ khi rời Mỹ Tho, không còn ai muốn đẩy tàu nữa. Thức ăn hết nhẵn, chỉ còn ít gạo sống mà đám thuyền nhân cướp giật lẫn nhau. Ðám thủy thủ của ông Hỏa, em rể ông Trương Hồng bắt đầu xô xát với những thanh niên người Hoa khác. Vài cảnh đâm chém diễn ra, vì giành vàng. Thêm những cái xác… Mọi người trên tàu gờm gờm nhìn nhau, không ai tin ai và tất cả giữ thế thủ, sẵn sàng sống chết vì một trái chanh hay ngụm nước lọc.
Ðường thiêm thiếp dưới nắng nung giòn, hình ảnh chuyến tàu định mệnh Titanic lởn vởn trong đầu anh. Dzũng cũng nhớ tới phim L’Aventure du Poseidon coi ở Eden năm 74, có Pamela Sue Martin và Gene Hackman đóng. Nhưng cái cảnh tàu Poseidon lật úp khác hẳn xác chiếc MT-603 mắc cạn, dật dờ. Biên ước ao có một hoang đảo để dạt vào như Robinson rồi tự túc hái hoa quả, cất lều, trồng trọt… Có lần nó đã kích thích cực độ khi anh Vĩnh và anh Thành hè nhau đun nước biển, theo kiểu chưng cách thủy để lấy nước ngọt tinh chất. Hai anh bảo số dầu dự trữ để đi Úc còn trong khoang hầm dưới, chỉ việc múc lên cho vào thùng thiếc rồi đốt. Tuy nhiên sau ba tiếng đồng hồ cầm nắp chảo gang hứng nước, chắc mẩm với phương pháp giáo khoa đã học, Thành và Vĩnh đều lắc đầu thất vọng. Một lít nước biển chỉ cho được vài giọt nước tinh chất sau khi đốt cả 5 lít dầu! Anh Công, chị Hương, chị Lan, thằng Tuân nhìn màu sắc của mây để đoán mưa. Ai cũng chực sẵn ở tay một lon gui-gô hay tấm bạt sẵn sàng hứng nước. Những ngày đó, nhóm của Ðường đã ăn những nhúm gạo sống rơi vãi còn nhặt được nơi một góc kẹt tàu và đã uống những cơn bão rớt không chừng của biển. Những kim mưa của biển ghim lên da mặt giúp đám thanh niên tỉnh táo biết họ đang rơi vào tình trạng chết dần mòn, nếu không có tàu qua lại tiếp cứu.
Một buổi chiều, anh Lý từ dưới biển lên, sau khi đo đạc cho biết là xác tàu đã bị sóng đẩy sâu vào trong san hô thêm mười thước! Anh Lý không còn là một cứu tinh, mọi người không còn gì để chờ đợi ở anh nữa.