Về chó, vốn từ vựng tiếng Việt rất dồi dào: ngoài chó, còn có khuyển, cẩu, cún và vằn. Không những dồi dào mà còn chi li: chó có nhiều loại khác nhau. Người ta phân biệt chó theo lông: chó mực, chó cò, chó phèn, chó luốc, chó mốc, chó đốm, chó vện, chó vá, chó xù, chó bông, chó mắm trê, chó lài, v.v.. Người ta cũng phân biệt chó theo giống: chó tây, chó xi, chó ta, chó cỏ, chó sói, chó ngao, v.v.. Phân biệt theo chức năng: chó cảnh, chó săn, chó nghiệp vụ… Sự phân biệt chi li đến độ người ta để ý và đặt tên chó trong một số thời kỳ nhất định. Ví dụ thời kỳ chúng rượn, chó đực được gọi là chó tháng bảy; chó cái được gọi là chó hoa vông. Chó điên có ba tên gọi khác nhau: chó điên, chó dại và chó ngộ (nhớ thơ Hoàng Cầm, trong bài “Bên kia sông Ðuống”: “Chó ngộ một đàn / Lưỡi dài lê sắc máu…)
Dồi dào và chi li như vậy kể cũng chưa hẳn là đặc biệt. Ở Việt Nam, có một số loài vật khác cũng thu hút một lượng từ vựng dồi dào và chi li như vậy. Ví dụ: lợn. Ðã có lợn lại còn có heo. Lợn thì có lợn bột, lợn cà, lợn cấn, lợn ỷ, lợn sề, lợn lòi, lợn tháu,… Heo thì có heo bông, heo cỏ, heo cúi, heo dái (còn gọi là heo hạch), heo đèo, heo gạo, heo gió, heo lang, heo nái, heo nọc, heo rừng, heo sữa, heo vá chàm, heo voi, v.v.. Gà cũng thế, thật dồi dào và chi li: gà ác (còn gọi là gà ri), gà ấp, gà cỏ, gà cồ, gà chọi, gà chuối, gà dao, gà độ, gà gô (còn gọi là đa đa), gà giò, gà hoa, gà hoa mơ, gà kiến, gà lôi (còn gọi là gà tây), gà mái ghẹ (hay gà mái tơ), gà nòi, gà nổ, gà ô, gà pha, gà phèn, gà sao, gà tàu, gà tre, gà xước, gà mã lửa, gà kim tiền, gà qué, gà sống, gà tồ, gà xiêm, v.v.. Bò cũng thế, tuy không nhiều bằng: bê, bò dái (còn gọi là bò mộng), bò tơ, bò sữa, bò rừng (còn gọi là bò tót), bò u, bò vá, bò vang, v.v..
Chó, như vậy, chỉ là một trong năm bảy giống vật được gọi tên nhiều nhất. Nhiều hơn trâu, bò, vịt… nhưng chưa chắc đã nhiều hơn gà và heo.
Tuy nhiên, đó là chó sống. Còn chó chết thì khác. Heo, bò, trâu, gà, vịt, dê, chim, cá, hay ngay cả cọp, v.v… lúc sống thế nào thì lúc chết thế ấy. Có lẽ chỉ có vài bộ phận của chúng là được đổi tên: máu hay huyết sẽ biến thành tiết; cái đầu sẽ được gọi bằng một từ Nôm khác: cái sỏ hoặc một từ Hán Việt thanh nhã hơn: cái thủ. Thế thôi. Còn chó chết thì biến thành một… thứ con khác. Thành cầy, chẳng hạn. Nguyên thủy, chúng ta biết, cầy là tên của một giống chồn vừa ngọt thịt vừa thơm tho. Ở đây rõ ràng là một sự mạo danh. Nhưng mạo danh như vậy chưa đủ. Người ta còn nói lái chữ “cầy tơ” lại thành “cờ tây”. Cũng chưa đủ. Người ta lại nói lái chữ con cầy thành “cây còn” và dịch ra chữ Hán để có một từ Hán Việt giả cầy là… mộc tồn! Cũng vẫn chưa đủ. Người ta còn gọi thịt cầy là thịt nai. Ðó là chưa kể có lúc người ta còn dùng cả tiếng Tàu nữa: hương nhục.
Như vậy, tổng cộng, lúc sống, chó có năm tên: chó, khuyển, cẩu, cún và vằn; chết đi, chó lại có thêm sáu cái tên khác: cầy, cờ tây, mộc tồn, nai tơ, nai đồng quê và hương nhục. Mười một tên!
Tại sao chó, nhất là chó chết, phải có nhiều tên như thế?
Vì tởm. Người ta gọi cọp bằng nhiều tên vì sợ cọp dữ và linh; còn gọi chó chết bằng nhiều tên gọi khác nhau chủ yếu là vì tởm cái thói ăn dơ của chúng. Nói cách khác, trong trường hợp trên, người ta muốn đánh lừa cọp; trong trường hợp dưới, người ta muốn đánh lừa… chính mình: ăn thịt cầy là ăn một thứ thịt khác. Chứ không phải là ăn thịt chó. Lại càng không phải ăn cái giống vật mình thường dùng để chửi người khác.