Hà Thúc Sinh là nhà văn quan trọng của chúng ta ở hải ngoại.
Ông tên thật là Phạm Vĩnh Xuân, sinh ngày 7.7.1943 tại Thanh Hóa. Di cư vào Nam năm 1954, là Sĩ quan QLVNCH, sau 1975 đi tù Cộng Sản hơn năm năm, vượt biển 1980. Ông định cư tại Hoa Kỳ 1981.
Hà Thúc Sinh xuất hiện trên văn đàn Miền Nam từ trước năm 1975. Kể từ năm 1964, người ta thấy thơ và truyện của Hà Thúc Sinh đăng trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn.
Sang Mỹ, Hà Thúc Sinh đã dấn thân vào nghề báo ở San Diego và đứng chủ trương tạp chí văn học nghệ thuật Tân Văn (đình bản sau 8 số vì thiếu thì giờ lẫn tài chính).

Ông cùng Nguyễn Khoa (giám đốc nhà in Kim) thành lập nhà xuất bản Văn Mới tại miền Nam California.
Ông được xếp vào phần Thi Sĩ và Văn Sĩ trên Thư Viện Việt Nam vì đã có công đóng góp đáng kể trong cả hai lãnh vực này.
Tác phẩm đã ấn hành gồm 4 thi tập (Trí Nhớ Đau Thương, Đá Vàng -1969. Điệu Buồn Chúng Ta -1971, Dạo Núi Mình Ta -1972) 6 dịch phẩm Văn và Sử trước năm 1975. Ở Mỹ, ông ấn hành thêm 2 thi tập, 1 tiểu thuyết, 1 ký sự, 2 dịch phẩm (đăng báo), 1 biên khảo (hợp soạn), 2 album băng (cassette) ca khúc và 4 tập truyện.
Quyển Đại Học Máu của ông được nhiều người Việt hải ngoại lẫn trong nước đọc.
Tác phẩm gom cả đời văn và sự nghiệp văn chương của Hà Thúc Sinh là tuyển tập Tống Biệt Hai Mươi, gồm 50 truyện, 1 kịch và 10 bài thơ chọn lọc.
Văn Hà Thúc Sinh cô đọng, sắc nét, mạnh mẽ nhưng vẫn chứa đựng nhiều chất thơ. Ngoài ra đọc ông người ta còn bắt gặp những nhận xét sâu sắc và nét châm biếm thông minh của một cây bút vững vàng.
Quỷ Xướng Văn – Kỳ 1
Mới đây anh về Việt Nam một chuyến, về thăm cha già ốm đau và cải táng phần mộ mẹ anh. Cha anh ở Sài Gòn và mộ mẹ anh còn ngoài Thanh Hoá. Hơn bốn mươi năm mộ vẫn còn. Lạ? Không đâu, ấy là nhờ trong khối nhân dân bần cố còn sót một số trình độ tiếp thu tư tưởng cách mạng kém cỏi, nhồi cách mấy vẫn không thông chính sách cào bằng lấp sạch.
Anh mặc tang phục, mua hương nến, các thứ cần thiết thuê thợ cải táng. Áo quan mẹ anh xưa bằng gỗ vàng tâm, bền như sừng, thế mà khi mở xương khúc còn khúc mất. Anh nhìn xuống mộ huyệt khóc cười tùy lúc. Anh Mới, người kéo xe tay cho mẹ anh xưa, giờ đã là ông cụ hom hem ngoài bảy mươi, ngạc nhiên hỏi vào tai anh:
“Cậu khóc hay cười đấy?”
Anh nhìn kín nhiều người lạ mặt, đáp khẽ:
“Cả hai. Phải thích nghi hoàn cảnh.”
Anh Mới hiểu, giọng gần với sự biếm nhẽ:
“Ngoài quy hoạch hết rồi. Cả nước đã tự do khóc, cậu khóc tí nữa không sao.”
Thế là anh khóc, khóc to hơn cả ngày thơ ấu lúc mẹ anh mất.
Cải táng xong anh rời khách sạn, ôm lư sành nhỏ đựng cốt mẹ về Thọ Xuân, chỗ anh ra đời và chỗ sống của anh Mới hiện tại. Nghỉ thêm ít bữa, anh Mới hỏi có muốn quay lại thị xã thăm thú cơ ngơi cũ của gia đình ở phố nhà Chung không, có muốn về nhìn lại quê hương tổ tiên ở Ba Làng huyện Tĩnh Gia không? Anh Mới dù gì vẫn là nhân dân. Còn anh con cháu giai cấp nợ máu. Nhân dân khiến sao anh làm vậy. Và quả đúng như lời anh Mới nói: “Cả nước đã có tự do khóc.” Bà con anh khóc lu bù.
Anh tính đáp xe lửa về lại Sài Gòn rồi từ đó trở sang Mỹ, nhưng anh Mới bảo chẳng biết bao giờ gặp lại, nên vào Nghệ một chuyến. Ở Nghệ anh Mới biết gia tộc anh còn nhiều chi họ nội ngoại. Suốt mấy mươi năm chuyên chính vô sản, thứ tình cảm tư sản độc hại lây từ gia tộc anh, anh Mới chữa không dứt, vì thế vẫn lén lút duy trì mối liên hệ linh tinh với họ hàng chủ cũ – những kẻ bị lịch sử vô sản tiêu diệt lốm đốm.
Anh Mới mua vé xe đem anh xuống Nghệ, dặn cứ y cách ở Thanh mà khu xử. Nhờ ơn bác đảng không còn là khẩu hiệu trí trá phổ thông với nhau nữa, giờ cứ nhờ ơn phong bao trong có ít tờ xanh xanh là nhất. Đó mới là tình nghĩa quốc tế keo sơn thứ thiệt.
Rời Thanh như rời một giấc mơ. Xuống Nghệ như đi vào giấc mơ khác. Anh cố nhẫn nhịn để câu thơ “Đường vô xứ Nghệ loanh quanh, non xanh nước biếc như tranh họa đồ” hướng dẫn thế mà không xong. Rừng thì phá, núi thì khoét, đường thì ổ gà; nói tóm lam nham như bức dư đồ rách. Cuối cùng anh tóm được trong anh cảm giác trung thực hơn cả: Chân không chấm đất, đầu không chạm trời, thần trí không chạm người. Anh thấy như anh đang phiêu diêu vào một cõi âm. Chỉ khi ôm sát vào lòng chiếc lư sành nhỏ đựng cốt mẹ anh, anh mới bừng tỉnh nhớ mình còn ở cõi dương. Nhưng điêu tàn đổ nát cũng có cái thẩm mỹ riêng của nó, vì thế cứ tức cảnh sinh tình anh đều đề trong óc một đoạn tứ tuyệt. Nhưng lạ, khuya đó ở nhà người cô họ, lấy giấy bút tính ghi lại thì đầu trắng bóc.
Buổi tối sau cơm nước, khi anh Mới đã ngáy như hùm anh mới hỏi han cô anh nhiều cố sự. Cô không nhớ gì nhiều, mà có thì lộn xộn lắm; đôi khi anh còn phải kín đáo điều chỉnh vài chuyện vụn ngay trong gia tộc, dù ngày còn bé anh chỉ nghe lóm.
“Vậy thì cháu nhắc nữa đi cho cô nhớ với,” cô xúc động bảo. “Dĩ vãng chốn này tựa thú hiếm cháu ạ, nhiều thứ tuyệt chủng từ lâu, phiêu lưu vào nó thế nào cũng lộn mộng ra thực thực ra mộng.”
Đêm ấy trên chiếc chõng tre anh băn khoăn quá. Hay đây đúng là nơi người ta dị nghị vùng đất ít người nhiều ma? Cô là con nuôi ông chú – em ruột ông nội anh. Xưa ông chú anh giàu. Cha anh từng kể thời tiêu thổ kháng chiến Việt Minh phải đặt vè mà phá nhà ở Vinh: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Hoan hô bộ đội phá nhà MT.” Di sản ấy sót lại nơi đây là ít người như cô, một bà già ngoài sáu mươi ốm yếu, không chồng con, lam lũ như một bà nhà quê. Quyền làm người của cô là được sống sót. Nhưng giờ có vẻ cô sống thoải mái hơn. Nói kiểu biện chứng sự thoải mái ấy là nhờ cách mạng vừa thực hiện thành công cuộc đổi đời mới nhất và sau cùng nhất. Từ đổi mới, giai cấp vô sản – kẻ cựu thù với giai cấp dưỡng phụ cô – đã lặng lẽ hè nhau chạy túa theo con đường mưu cầu tư sản từ hồi nào, do đó chẳng ai còn rảnh rang, còn tai mắt đâu mà nhòm nhỏ dao thớt nhà cô, suy bì với lối sống “bóc lột” của gia tộc dưỡng phụ cô dù nó đã được mai táng từ nửa thế kỷ trước. Cô nghiễm nhiên trám chỗ hoàn toàn và triệt để khoảng trống vô sản bao la nhân dân vừa bỏ lại. Phần già chậm chân, phần kinh cung chi điểu, cô đành tận tụy với giai cấp mới nhưng vừa cũ mà xưa cô chỉ là kẻ tân tòng. Trong mắt anh, cô có nhiều triển vọng sẽ mang vinh dự người gác dan sau cùng trao chìa khóa thiên đường cộng sản cho một thế lực mới nào đó đến tiếp thu một ngày không xa.
Một hai ngày đầu anh nuốt không vào miếng cơm độn đã nhiều chục năm trở thành xa lạ. Anh dấm dúi phong bao cho cô, khá, thế mà quanh đi quẩn lại vẫn cơm độn với canh đu đủ xanh nấu cá trỏng khô, bữa nào dôi lắm có thêm tí trứng rán. Anh hiểu và thương. Thượng đế sinh con người có kèm một ân huệ phụ: Thói tập thành huyền diệu. Cách khác, mù mãi thân được bóng tối.
Nhà cô nằm bên bờ sông Lam có núi Thành không xa nhìn xuống. Căn nhà lá vách đất mới đây rùng mình biến thành căn nhà ngói vách ván. Nhờ phép lạ kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Cả nước để sống bắt chước nhau dối trá như cuội, riêng về sự khá giả lại thật như đếm. Cô siêu nhân sao mà dám đi ngược xu hướng thời đại. Cái khoản nhà ngói cây mít cô thú nhận họ hàng từ nước ngoài gửi tiền về giúp.
Một lần cúi vo gạo bờ ao, thấy một lão già thoáng qua, cô có vẻ thất sắc, vòng tay kéo ngay vạt áo lưng xuống. Trông dáng dấp một bà cụ ngoài sáu mươi làm trò thiếu nữ anh có ngạc nhiên hỏi:
“Ai thế?”
Cô không đáp, thầm thì:
“Lạ, sao dạo này lão về hoài.”
Rồi cô quày quả mang rá gạo vào nhà, cài then cửa trước, không hé môi gì thêm.
Trưa sau anh lại thấy lão. Lúc ấy lão ngồi thả câu bên cái ao cá có tấm biển đề “Ao cá bác Hồ.” Thấy lão trầm ngâm, râu ria đạo mạo anh tò mò lân la làm quen. Nhờ cái cần câu làm vội anh nhanh chóng được lão chấp nhận bạn câu. Lão phá đi sự câm lặng như cái cối xay dưới lòng ao để trò chuyện với anh. Lão mặc bộ quần áo nâu xuềnh xoàng nhiều túi, chân vẫn dép râu đầu vẫn nón cối. Dù sao nhìn chung lão có tí cốt cách, duy giọng đục, xa; sự đục và xa ngang với dĩ vãng của anh, một dĩ vãng dài hơn bốn mươi năm mới lại được về chỗ cũ ngồi dưới một gốc sung thả câu bâng quơ thế này. Nhìn những con nhện nước chạy ngang dọc trên mặt ao anh rùng mình. Thốt nhiên anh nhớ lại những nẻo đường anh từng chạy ngang dọc trên đất nước, trên mặt địa cầu.
Anh bắt chuyện trước:
“Đây ra sông mấy bước sao cụ câu ao?”
“Tuổi già nhìn nước trôi như nhìn thời gian, chóng mặt lắm.”
“Ao có cá chứ cụ?”
“Đất nước ta rừng vàng biển bạc, cá thịt xuất khẩu không hết, câu cho vui, miếng ăn nào phải vấn đề.”
Anh nghĩ thầm có lẽ lão là một cấp ủy chi đó đã hưu. Mà thế thì thôi. Xảo trá ăn vào xương một lão già chỉ thần chết cạo được. Anh tiếp tục, “Cụ bà và các anh các chị ở quanh đây cả chứ?”
Lão lạnh lùng:
“Cụ bà thì không còn con cháu rải rác đếm chi xuể. Vả ai đi làm cách mạng cũng thê tróc tử phược cậu nghĩ đem đất nước đến được kết quả thế này?”
Anh rút thuốc lá mời lão. Điếu thuốc Mỹ khiến cảm tình một người cách mạng lão thành dành cho anh nảy nhanh như bèo tấm mùa xuân.
Rít mấy hơi liền giọng lão có vui, bảo:
“Thơm, thuốc Mỹ vẫn thơm!”
Thấy lão già cũng phàm tục như ai, anh nổi máu đùa khá suồng sã:
“Cụ vừa bảo không cụ bà lại lắm con cháu là sao?”
Lão không đáp ngay câu hỏi mà mông lung kể một câu chuyện:
“Các cụ xưa có dạy ‘đàn bà ra chợ là vợ đàn ông.’ Mà nhảy vào cách mạng thời chúng tôi khác nào nhảy vào cái chợ quốc tế. Thôi thì mặc sức. Thời còn trẻ hoạt động tôi có thằng em song sinh đa tình, đi đâu vợ đó, sau hai trứng dái, xin lỗi cậu, lúc chết phát to như trứng dái dê.”