Thân ái mời các bạn đọc tiếp truyện Quỷ Xướng Văn của Hà Thúc Sinh. Truyện trích từ tuyển tập Tống Biệt Hai Mươi. Ở đây, cũng như trong nhiều truyện khác, văn Hà Thúc Sinh cô đọng, sắc nét, mạnh mẽ nhưng vẫn chứa đựng nhiều chất thơ. Ngoài ra đọc ông người ta còn bắt gặp những nhận xét sâu sắc và nét châm biếm thông minh của một cây bút vững vàng.
Hà Thúc Sinh
‘Quỷ Xướng Văn’ kể lại chuyện Hà Thúc Sinh về thăm bố và cải táng mộ mẹ ở một vùng quê đất Bắc. Tại đây, tác giả gặp một lão già quái dị, nửa người nửa quỷ. Lão như từ mồ mả hiện về, mang hơi hướm và khẩu khí của một cán bộ cao cấp thâm căn cố đế. Trong lúc trò chuyện, lão nói hết những thủ đoạn quỷ lộng thần sầu của đám cán bộ ăn trên ngồi trốc. Câu chuyện tiếp tục. NGUYỄN & BẠN HỮU
Quỷ Xướng Văn – Kỳ 2
Đột ngột lão ta đổi giọng nghiêm chỉnh,
“Cậu nước ngoài về?”
Anh chột dạ:
“Sao… cụ biết?”
Ngẫm nghĩ giây lát, lão thở dài:
“Tôi chán sự đánh giá người cách mạng của các cậu lắm. Luôn luôn các cậu tưởng chúng tôi ngu. Không đâu. Cả một đời đụng và thắng đủ các thế lực ngoại thù đế quốc thực dân, thủ tiêu hết các giai cấp nội thù phong kiến tư sản đảng phái Việt gian phản động, xin lỗi cậu, tai mắt mũi cách mạng không nhạy như chó thì nghe sao ra ý đồ xấu xa, thấy sao ra quyền biến mưu mẹo, ngửi sao ra vàng bạc châu báu chôn giấu? Phớt qua tôi biết cậu vừa cạo râu có bôi nước Old Spice; và gói thuốc của cậu nữa, sự bèo nhèo không tố giác cung cách kẻ quen thừa mứa hàng tiêu dùng đấy sao?”
Anh hơi lợm nhưng chợt hiểu rõ hơn một điều đã hiểu.
Thấy lưỡi câu của lão máy động, anh giục:
“Cá lớn đấy, giật đi cụ!”
Lão nhìn anh cười khỉnh:
“Mắt cách mạng không phải mắt dân thường. Máu còn chả khúc xạ được tia nhìn chúng tôi nữa là cái mặt nước ao. Cậu muốn tôi bắt một con giếc nhãi? Này thanh niên, đã cất công giật câu phải được cá kình!”
Cho là lão già kiêu ngạo gàn dở, anh toan đứng lên thì lão ghì anh lại bằng câu hỏi đột ngột, “Bên Mỹ thế nào? Sau bang giao cậu thấy sao?” Từ khi bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất anh đã tự dặn lòng hai điểm phải tránh: Ðiều thứ hai không nói chính trị sau điều thứ nhất chớ đả động đến họ Hồ. Bên Mỹ thế nào, bang giao ra sao đều có tính chính trị. Anh đánh bài lờ. Thấy anh im lặng, lão liếc, nét tinh quái hiện trong khoé mắt. Một lát lão trổ giọng phủ dụ, “Giờ cởi mở. Với lại vùng này tôi tiên chỉ. Nói với ai cậu ngại chứ với tôi cứ tự nhiên. Ở đây tôi toàn quyền ngồi xổm trên mọi chính sách.” Anh không quan tâm lắm đến những lời huênh trộn cay đắng của đám cán bộ già hết thời. Về đây chạm hạng này nhiều rồi.
Cố tỏ ra chút ngạc nhiên, anh hỏi:
“Thời xã hội chủ nghĩa làng xã cũng có tiên chỉ nữa sao?”
Lão cười:
“Hỏi bà gì ấy nhỉ, bà cô của cậu ấy khắc rõ.”
Lão kéo câu gắn mồi mới. Anh lẩm bẩm, “Thế ra bình mới rượu cũ, vẫn tiên chỉ thứ chỉ!” Lão nghe lọt, nhìn anh như thương hại cho một con câu non, giải thích với giọng khá chân thành, “Làm cách mạng là để đạt được những cái xấu, cái tiêu cực thơm phức của giới cai trị mà khi chưa cướp được chính quyền người cách mạng thèm, xin lỗi cậu, như chó thèm xia, hà tất chỉ tí đầu lợn làng xã.”
Cảnh giác ban đầu mất biến, anh nổi tò mò:
“Hoá ra cứu cánh là tư lợi phương tiện là cách mạng?”
Lão vung tay. Sợi dây bắn ra giữa mặt ao. Lão hỉnh mũi:
“Cậu đọc Hàn Phi, đọc Marchiavelli đấy chứ? Những liên hệ hữu cơ giữa người với người, giữa cai trị với bị trị đều vì tư lợi tuốt luốt. Ông tiên chỉ gắn với làng xã để hưởng cái đầu lợn, cách mạng gắn với nhân dân để hưởng sự toàn quyền ban phát những cái đầu lợn thừa mứa. Ấy là nói kiểu biểu tượng đấy thôi. Mà cậu xem. Con cá dưới ao tù còn phát triển, quyền lực lãnh đạo nửa thế kỷ qua cậu tưởng bị còi? Mồ hôi nước mắt nhân dân vô ích? Nảy nở không lường được nữa cao rộng không đo được nữa cậu ạ.”
“Thụy kỳ chung…”
“Hà hà… thì thế. Ðã gần đất xa trời quanh co với trẻ làm gì. Nói trắng với cậu chúng tôi phát động cách mạng là để lặp lại chu kỳ lịch sử bằng cách tinh vi và khoa học hơn, có thế mới tồn tại, mới muôn năm trường trị được. Cậu vừa chê chúng tôi phong kiến? Trở lại phong kiến và biến phong kiến thành siêu đã từ lâu lắm.”
Anh ngẫm nghĩ giây lát, hỏi dè chừng:
“Không nên không phải cụ bỏ qua cho, tôi nhớ Saint-Just có nói ‘chẳng ai cai trị mà không phạm tội ác.’”
Như một người thừa thông minh vặt, lão già cười hệch lên:
“Lời thú tội của một tên ấu trĩ! Lão luyện phải nói thế này, chẳng ai cai trị giỏi mà phạm tội ác.”
“Tôi….”
“Ðáng thông cảm. Trình độ cậu chưa hiểu nổi đâu. Cứ xem như quá trình cách mạng vô sản nước ta, đấy cậu thấy, bọn phản động công phá bao năm rồi thấm tháp gì. Như đồng chí Văn Cao viết, cách mạng chúng tôi có bao giờ nhợn chuyện ‘uống máu quân thù.’ Nhưng ai sẽ là kẻ bị lên án uống máu, uống từ vụ đấu tố cải cách ruộng đất, đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ xét lại chống đảng, sau này vụ tù cải tạo, vụ đánh tư sản, vụ đào mồ bốc mả cả miền Nam lên, vụ bách hại các tôn giáo, đàn áp trí thức văn nghệ sĩ, cả vụ bán dân cho cá mập biển Ðông lấy vàng?”
Anh choáng váng thấy lão phun sự thật trong cung cách lạnh lùng vô cảm. Tay nhấp nhấp cần câu, miệng lão vẫn đều đều, “Giá như, tôi nói giá như thôi đấy nhá, lịch sử làm một cú lộn lèo thì kẻ lãnh án uống máu là ai? Óc nhân dân sáng tạo phục vụ Tổ quốc thì bao la nhưng khả năng nhận diện những kẻ uống máu thì hạn hẹp lắm. Tôi bảo đảm với cậu nếu lịch sử tráo trở sẽ khó tránh cảnh ‘đầu đường cổ lính treo cao, cuối đường cảnh sát dao vào sau lưng.’”
Vô cớ anh thốt la lên:
“Họ đâu là thủ phạm, họ thừa hành!”
Lão già trầm ngâm hẳn. Lão ngước nhìn trời. Thấy xế bóng lão khoan thai thu lại mớ đồ nghề câu. Có tiếng chim chích choè loé sau bụi tre. Anh ngửi thấy mùi cơm độn khoai toả sau mấy cây rơm. Và mùi canh đủ xanh nấu cá trỏng khô nữa. Anh ngước nhìn Núi Thành xa xa, bất giác thấy giống một mộ bia cao ngất chạm trời, và rùng mình nhìn dòng Lam như vừa biến thành dải tang bất tận dưới màu chiều lạnh.
Lão già đã sửa soạn đứng lên. Rõ ràng lão không có ý thân thiện mời một người từ ngoại quốc về ghé thăm nhà lão. Lão nhấp miếng nước đựng trong một vỏ bầu khô. Anh ngửi thấy mùi rượu thơm khá quen thuộc. Nhưng lão không cho anh thêm thì giờ thám thính trên con người lão. Lão vuốt bộ râu dài chẳng để gỡ rối mà hình như vì thói quen. Ngoảnh mặt chỗ khác, lão nói khẽ, “Vì thế tôi mới hỏi cậu bên Mỹ lúc này thế nào, sau bang giao ra sao?” Anh lúng túng. Có lẽ đoán anh tối dạ, lão đội chiếc nón cối trắng lên đầu, tiếp, “Thường lãnh đạo thời nào cũng thế cậu ạ, đặc quyền đầu tiên là không phải trực tiếp xông pha hòn tên mũi đạn, kế nắm xã tắc trong tay, kế nữa tội ác chế độ có dê tế thần, và sau chót giá như con quỷ lịch sử trở mặt, họ luôn có chỗ dung thân an toàn cho cả chó mèo. Mà thôi, hỏi cậu vậy thôi, chứ Mỹ thế nào, sau bang giao ra sao đây thông cả. Giờ kiếu nhá. Già nó vậy, cơm rượu phải đúng cữ, muộn chút khó ở ngay.”
Lão lửng thửng vác cần câu bước ra bờ sông Lam. Anh cũng đứng lên, bần thần, một lát sực nhớ, hỏi với theo:
“Thế cụ ở đâu, cụ làm gì sống?”
Lão như miễn cưỡng dừng lại, nhưng không đáp, mà hỏi ngược:
“Thế cậu về làm gì?”
“Dạ hốt cốt mẹ tôi.”
Lão bật cười thành tiếng:
“Quả lạc hậu là bệnh di truyền khó chữa. Sao người ta cứ thích sống với người chết thế nhỉ! Này nhớ, không phải ai chết cũng đáng nhắc mãi, nhớ mãi; vinh dự ấy chỉ dành cho các lãnh tụ anh minh đã được sách sử đóng mộc thừa nhận sẽ sống mãi trong quần chúng thôi.”
Ðã hiểu “muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa,” mà lão ta không là một con người xã hội chủ nghĩa thuần thành đó sao, anh thấy hề nếu biến đạo lý thành chuyện tranh luận, nên bấm bụng lặp lại câu hỏi cũ:
“Thế cụ ở gần đây chứ?”
“Bảo gần không phải bảo xa cũng không đúng. Mà cậu hỏi làm gì?”
“Tôi còn ở đây ít ngày, muốn đến… chơi cụ.”
Lão không giấu nổi nét nghi ngại, cười nhạt, giọng khá bí hiểm:
“Ðảng đứng trên đứng ngoài chứ không đứng kề đứng giữa nhân dân bao giờ. Xáp gần là cách dẫn đến họa tru di tam tộc nhanh nhất. Tôi mong cậu hiểu cho châm ngôn bất di dịch của người làm cách mạng vô sản chuyên chính nhà nghề như chúng tôi, cho dù tôi đã hưu từ lâu lắm.”
“Vâng, nhưng ít nhất…”
Như đoán ra câu hỏi, lão nói luôn:
“Hỏi cô của cậu ắt biết. Hàng năm tôi vẫn về Nam Ðàn nghỉ mát. Gần đây thôi. Ném lẵng hoa cũng tới.”
Rồi lão gãi tai xin anh thêm điếu thuốc, bảo ban trưa đãng trí bỏ quên gói thuốc ở nhà. Anh đưa hết gói thuốc Mỹ còn sót dăm điếu cho lão, ý cũng ngầm xem kỹ nét mặt lão lần nữa trước lúc lão ra đi. Nhưng như biết ý đồ anh, lão lẩn tránh bằng cách cúi đầu châm thuốc, nhả khói mờ cả mặt, thản nhiên quay gót.
Những ngọn cau ngọn dừa xô dạt. Mùi sông nước đồng áng khi không tanh tanh lẫn với mùi lịch sử khi không cũng tanh tanh. Anh đứng bất động nhìn theo lão già khuất sau một bụi tre gai. Một dải nắng chiều sáng loé. Hình ảnh cuối của lão anh ghi được chỉ là một khoé mắt rất lanh, nét môi dày và một vành tai bạt nhĩ; sau đó chỉ còn tiếng gió lộng như có lộn tiếng cười rền kỳ dị của lão.
Anh về. Cô hỏi đi đâu và bảo sửa soạn ăn tối. Anh đáp ngồi câu với lão già. Sực nhớ cả buổi quên hỏi tên lão, anh hỏi cô, cô im lặng. Nhìn ra ngoài trời chạng vạng, cô nói “Tháng này sương xuống sớm, tắt nắng đã u ám như bãi tha ma.” Cô quay nhìn anh dặn cách khó hiểu, “Còn chơi đây ngày nào cháu nên thận trọng.” Nói đoạn cô bước xuống bếp, lẩm bẩm, “Rõ thần suy quỷ lộng,” và lặng lẽ lấy treo trước cửa một xâu tỏi đã mối mọt nhiều.
HTS – Alhambra 9-95
Nguồn: Việt Nam Thư Quán