Nhà nước Việt Nam có cởi mở hơn về quan hệ quần chúng không?
Năm ngoái, một vài tin tức nói rằng nhà nước Việt Nam – một chế độ cộng sản – muốn thể hiện một chút nhân quyền – đã trở thành một nước đầu tiên ở Đông Nam Á bãi bỏ lệnh cấm về hôn nhân đồng tính.
Tin này không đúng. Vì điều này không bao giờ xảy ra.
Ở Việt Nam ngày nay, những cặp đồng tính chỉ có thể sống chung “hộ khẩu” và có thể tổ chức đám cưới, nhưng họ không bao giờ được xin giấy hôn thú. Chẳng hề có chuyện bãi bỏ luật cấm này và họ không thể nào kết hôn ở Việt Nam. Nhà nước Việt Nam loan báo rằng việc nới rộng kể trên là biểu tượng cho tính “khoan dung” và “thông cảm” của nhà nước, và một số người ngoại quốc cả tin thì lại nghĩ rằng đã có một số chỉ dấu cải thiện nhân quyền của Việt Nam! Nhưng đây chỉ là ảo tưởng, cố tạo ra một vài biểu tượng để thu Mỹ kim từ những du khách đồng tính ngoại quốc. Thực ra chẳng có gì thay đổi cả. Tổ chức Quan Sát Nhân Quyền Á Châu (the Asia for Human Rights Watch) nói rằng “nhà nước Việt Nam tiếp tục vi phạm nhân quyền với sự báo động thường xuyên”.
Trong tháng 4 này, chúng ta thấy nhiều bài viết trên một số cơ quan truyền thông Anh ngữ mô tả Việt Nam là nơi mà du khách “phải tìm đến”! Chẳng có ai ngạc nhiên về những người viết bài này được mời đến Việt Nam với sự tài trợ của nhà nước Việt Nam.
Nhiều thập niên sau chiến tranh, một số người tỵ nạn về Việt Nam làm ăn!
Cuộc chiến Việt Nam đã lấy đi 3 triệu người Việt Nam và hơn 58,000 người Hoa Kỳ. Sau đó, hơn một triệu người bị bắt lao động khổ sai trong những trại tù “cải tạo”, nơi đã có nhiều người thiệt mạng vì nhiều lý do khác nhau và hàng chục ngàn người bị giam cầm cho đến cuối năm 1980. Cùng lúc, hàng ngàn người đấu tranh cho tự do dân chủ bị giam giữ khắp nơi ở Việt Nam. Nhiều người khác tìm cách vượt thoát khỏi chế độ cộng sản trên những chiếc ghe chở đầy người phải đối phó với bọn hải tặc, giông bão và đói khát. Từ năm 1975 cho đến 1995, khoảng 800,000 thuyền nhân tỵ nạn đã phải lánh cư ở các quốc gia khác, trong khi có khoảng 300,000 gửi xác nơi biển cả mênh mông. Thời bấy giờ, nhà nước cộng sản Việt Nam luôn xem những người Việt ra đi tỵ nạn là “bọn phản quốc”.
Vậy thì tại sao một số người Việt lại quay về sống và làm việc tại Việt Nam? Trước hết, hầu hết những người trở về này không phải là những người phải chiến đấu trong cuộc chiến vừa qua, cũng không phải là những người từng phải trải qua nhiều năm trong tù “cải tạo”. Họ là những người rời khỏi Việt Nam khi còn rất nhỏ và lớn lên ở một đất nước khác.
Một số người trở về Việt Nam có cảm nhận về một nơi đã bỏ đi khá lâu và biết rất ít về nơi chốn ấy vì họ rời khỏi quê hương khi còn bé. Một người nói rằng: “Tôi muốn trở về nơi đã rời bỏ. Một điều gì đó đã thúc đẩy tôi. Đó là nơi tôi nghĩ có nhiều cơ hội để làm một điều gì đó và là một cơ hội để tìm lại đất nước của bạn, tìm lại chính bạn”. Những suy nghĩ lý tưởng này không kéo dài bao lâu, nhiều người trong số này đã lặng lẽ rời khỏi Việt Nam và không bao giờ trở lại.
Trang mạng điện tử của đảng cộng sản Việt Nam khoe rằng từ năm 2004 đến giữa Tháng Sáu 2013 có khoảng 3,000 “Việt kiều” đã trở về sống thường trú ở thành phố Sài Gòn, trong khi có khoảng 9,000 người khác được cấp giấy phép sống thường xuyên ở Việt Nam để làm việc và đầu tư ở thành phố này. Nhưng trang mạng điện tử của đảng chưa hề làm thống kê thú nhận đã có bao nhiêu người bị lường gạt và khánh tận vì những luật lệ tròng tréo và thiếu minh bạch ở Việt Nam.
Một người thoát khỏi Sài Gòn khi còn trẻ trên một chiếc trực thăng trên nóc tòa Đại sứ Hoa Kỳ ngay lúc thành phố này bị cưỡng chiếm. Anh ta trở về Việt Nam sau hai thập niên và là giám đốc của một công ty Hoa Kỳ sản xuất hàng hóa tại Việt Nam. Ông nói đây là cơ hội để làm một điều gì đó có ý nghĩa cho mảnh đất sinh ra anh. Tương tự, anh cũng phải bỏ cuộc vì tệ nạn tham nhũng kinh hoàng ở Việt Nam.
Một thanh niên khác có người chị bị hải tặc Thái Lan giết chết khi vượt biên khỏi Việt Nam, anh này mới đây trở về Sài Gòn và trở thành một doanh thương tương đối thành công, nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn. Một “Việt kiều” khác có cha từng bị tù “cải tạo” một thời gian dài, đã trở về Việt Nam để hưởng tuần trăng mật, và rồi cũng thất vọng về hệ thống du lịch kém chất lượng ở Việt Nam. Một người khác cũng có cha từng bị lao động khổ sai trong tù “cải tạo” đã trở về Việt Nam và hiện làm chủ một quán rượu, và cũng phải than thở về việc phải đóng tiền “hụi chết” thường xuyên cho công an địa phương.
Một vài người khác trở về với tinh thần khác. Một phụ nữ Việt từng vượt biên với gia đình vào cuối thập niên 70. Bà đã về Việt Nam để giúp lập một chương trình giúp đỡ những gia đình nghèo ở đồng bằng Cửu Long để những gia đình này không bán con cho những đường dây buôn trẻ em. Bà đã giúp thay đổi số mệnh cho nhiều gia đình có đời sống tốt hơn.
Hầu hết những người tỵ nạn Việt Nam đều suy nghĩ rằng về Việt Nam muốn làm giàu là điều không tưởng. Còn muốn trợ giúp để đất nước tốt đẹp hơn thì không thể làm bằng cách chữa cháy thường trực, mà phải bằng những việc làm quyết tâm và cụ thể, để chấm dứt nguyên nhân gây ra thảm trạng này.
LMH