Câu chuyện đang thời sự là chuyến đi Hoa Kỳ kéo dài 5 ngày (6 đến 10 tháng 7) của người đứng đầu đảng Cọng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng. Có cả cuộc thăm viếng Tổng Thống Barack Obama sau khi các phụ tá đôi bên giải tỏa những rắc rối mang tính cách nghi thức, vì trên mặt công pháp quốc tế, Nguyễn Phú Trọng chỉ là nhân vật cầm đầu một đảng phái, không phải cương vị nguyên thủ quốc gia.
Tổng Thống Nixon đón tiếp Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại San Clemente, California, USA ngày 04 – 4 – 1973 – Image by © CORBIS
Không khó hiểu khi có nhiều dư luận trái chiều về chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng, vốn cũng không phải lần đầu tiên 1 nhân vật chóp bu của CSVN tìm cách tiếp cận Washington và Tòa Bạch Ốc. Phía Hà Nội không ngớt tuyên truyền rình rang vụ này trước công luận. Nhiều người Việt, quốc nội lẫn quốc ngoại, cũng rất quan tâm về những vấn đề sẽ được giải quyết qua sự kiện này. Trước khi thử tìm hiểu các hệ luỵ và sự ảnh hưởng của nó ra sao đối với cuộc diện Á Châu Thái Bình Dương cũng như lịch sử nước nhà, trên trang báo này, mời quý vị cùng chúng tôi nhìn lại những cột mốc quan trọng trong sử Việt thời hậu Thế Chiến II, chú trọng cách riêng mối giao hảo với vô vàn uẩn khúc giữa Hà Nội và Washington.
Các thành viên của O.S.S. Deer Team chụp hình với HCM và Võ Nguyên Giáp trong 1 khoá huấn luyện cán bộ Việt Minh năm 1945. Ảnh NY Times
Thập niên 1940
Năm 1942, một người Việt Nam bị chánh quyền Trung Hoa quốc gia của Tưởng Giới Thạch (1) bắt tại Quảng Tây (2), cực Nam Hoa Lục, giáp giới Bắc phần VN. Lúc đó, người này (lấy tên Hồ Chí Minh – HCM) là 1 phần tử cộng sản bất hảo nhưng chưa phải đặc biệt nguy hiểm, nên chỉ bị cầm giữ chừng 13 tháng rồi được phóng thích. Đến tháng 6-1945, lợi dụng cảnh tranh tối tranh sáng cuối Thế Chiến II, nhân vật này và tổ chức con đẻ là Việt Minh lẳng lặng mở nhiều căn cứ địa trên các vùng núi non rừng rậm mạn cực Bắc VN. Theo thứ tự thì HCM là lãnh tụ tiền bối, còn Nguyễn Phú Trọng là lãnh tụ hiện tại của CSVN. Ngay từ lúc đó, HCM đã tìm cách tranh thủ bắt tay Hoa Kỳ, mà một trong những đại diện chánh là các sĩ quan tình báo OSS (3) đang có sứ mạng giải giới Nhật. Thậm chí, vào ngày 2-9-1945, tại Hà Nội, lúc HCM đọc bản “Tuyên Ngôn Độc Lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (4), đã sao chép không ít từ Declaration of Independence của Hoa Kỳ thời lập quốc, nhất là trong đoạn mở đầu. Nhưng cuối cùng phía Hoa Kỳ rút êm vì cho rằng HCM bất khả tín. Dẫu sao, với địa thế hiểm trở, lại được Trung cộng chống lưng (5), HCM và người cộng sản VN đã có thể kháng cự người Pháp gần cả thập niên sau đó.
Đầu thập niên 1950
Sau khi công nhận Quốc gia Việt Nam (6) dưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại, Hoa Kỳ chánh thức khởi sự viện trợ quân sự người Pháp. Đầu tháng 8-1950, phái đoàn cố vấn quân sự đầu tiên của Hoa Kỳ (7) trên 30 người đến miền Nam Việt Nam lần đầu tiên. Cuối năm 1950, Hoa Kỳ đã gánh chịu đến phân nửa phí tổn chiến tranh trên chiến trường Đông Dương. Ðến giữa năm 1954, Trung Ương Tình Báo CIA mở phái bộ quân sự tại Sài Gòn, cùng thời điểm Quốc Trưởng Bảo Đại chọn chí sĩ Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng.
Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight Eisenhower và Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm năm 1957. Ảnh United States National Archives
Cuối thập niên 1950
Nhận nhiều trợ giúp, ngày 7-5-1954, người Pháp vẫn bại trận Điện Biên Phủ, Bắc phần VN. Tháng 7-1954, Pháp Quốc đầu hàng phần lãnh thổ phía bắc vĩ tuyến 17 cho HCM và Việt Minh tại Hội Nghị Geneva (8). Cùng ký tên đồng thuận Hiệp Định Geneva 1954 (9) có Bắc Việt (VNDCCH), Cam Bốt, Lào, Pháp, Trung cộng, Nga sô, và Anh Quốc. Hoa Kỳ ghi nhận Hiệp Định nhưng không ký kết. Quốc Gia Việt Nam từ chối ký tên. Sau đó, HCM và các binh đoàn Việt Minh từ rừng núi về tiếp quản Hà Nội. Sang 1955, với sự trợ giúp của Hoa Kỳ thời Tổng Thống Eisenhower, người Việt quốc gia ở Nam phần VN bác bỏ Hiệp Định Geneva, lập nước Việt Nam Cộng Hòa (10) do Tổng Thống Ngô Đình Diệm đứng đầu. Đến đầu tháng 5-1959, Hà Nội thiết lập “Đoàn 559” với sứ mạng chuyển bộ đội, võ khí, quân cụ đi xâm lăng nước này.
Đầu thập niên 1960
Năm 1961, Hoa Kỳ tăng viện trợ cho VNCH lên $144 triệu. Tổng Thống Diệm thuận nâng số cố vấn quân sự Hoa Kỳ lên 3,400. Đến 1962, con số cố vấn Hoa Kỳ trợ giúp Quân Lực VNCH tăng lên 12,000. Tháng 5-1964, đáp trả các cuộc tấn công của Bắc Việt lên Miền Nam VN, Washington khởi sự áp dụng cấm vận thương mại đối với Hà Nội. Ngày 8-3-1965, những đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đầu tiên, với khoảng 3,500 quân nhân, đổ bộ vào Đà Nẵng. Nhiều sử gia tin rằng, TT Ngô Đình Diệm bị loại trừ trước đó vì đã chống lại chủ trương đưa binh sĩ Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến.
Cuối thập niên 1960
Đến 1965, đã có 200,000 binh sĩ Hoa Kỳ có mặt tại Nam VN. Sang 1966, con số quân nhân Hoa Kỳ tăng lên 400,000, rồi 500,000 tiếp theo năm sau. Đỉnh điểm chiến cuộc năm 1968, có gần 540,000 binh sĩ Hoa Kỳ tại Nam VN. Ngay dịp Tết Mậu Thân 1968, cộng quân thình lình nổ súng tấn công trên toàn cõi VNCH. Quân Lực VNCH, hợp lực với quân bạn đồng minh, đã phản công mãnh liệt. Mặc dù trên trăm ngàn cán binh cộng sản bị loại khỏi vòng chiến, nhưng Hà Nội lại thắng trận tâm lý chiến. Biến cố Mậu Thân vô tình thổi bùng phong trào phản chiến, tạo áp lực mạnh, khiến Washington các năm sau phải thay đổi sách lược, chung cuộc dẫn đến bỏ rơi đồng minh VNCH. Từ tháng 5-1969, đại diện Hà Nội và Washington đã mở hòa đàm tại Paris. Tháng 7-1969, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon tuyên cáo triệt thoái đợt binh sĩ Hoa Kỳ đầu tiên khỏi lãnh thổ VCNH. Đến cuối 1969, TT Nixon lên TV công bố trước quốc dân Hoa Kỳ 1 sách lược mới đối với chiến cuộc Việt Nam mệnh danh là Việt Nam hóa chiến tranh (11). Trên lý thuyết, chiến lược này nhằm triệt thoái quân lực Hoa Kỳ trong danh dự, cùng lúc tăng cường quân viện cho QLVNCH tiếp tục bảo vệ nền Cộng hòa tự do. n Thập niên 1960 và phong trào phản chiến
Cựu tù Hoả Lò, Thượng Nghị Sĩ McCain tiếp Nguyễn Phú Trọng tại Capital Hill. nguồn www.japantimes.co.jp
Từ ngày 21 đến 23-10-1967, 50 ngàn người Hoa Kỳ xuống đường tuần hành tại Washington, D.C., chống sự can dự quân sự tại Đông Dương. Nhưng phong trào phản chiến đã manh nha mấy năm trước. Mùa xuân 1962 ở New York, nhạc sĩ Bob Dylan lần đầu tiên trình diễn ca khúc “Blowin in the Wind” ý nhị, nhẹ nhàng, sâu sắc, nhưng đã vô tình trở nên một trong những bài hát phản chiến nổi tiếng nhất. Cuối tháng 11-1969, 1 đám đông khác, đến 250,000 người, lại biểu tình phản chiến ở Washington, D.C. Ngày 4-5-1970, Vệ Binh Quốc Gia “Ohio National Guardsmen” nổ súng bắn vào đoàn sinh viên biểu tình phản chiến tại Đại Học Kent State University, làm 4 sinh viên thiệt mạng và 9 người khác bị thương. Hai ngày sau đó, trên 100 trường đại học Hoa Kỳ đồng loạt đóng cửa vì giới sinh viên phản kháng quá dữ trước tin này. Đây là những sự kiện gây chấn động dư luận xã hội Hoa Kỳ thời đó, thổi bùng phong trào phản chiến, gây thất lợi cho chánh nghĩa quốc gia VNCH, và vô tình tiếp sức cho Hà Nội. Một trong những sinh viên phản chiến nhiệt thành nhất mang tên Bill Clinton, khi đó đang theo học khoa Triết-Chánh Trị-Kinh Tế tại Ðại Học Oxford University. Ðến năm 1995, lúc ông làm Tổng Thống Hoa Kỳ, Clinton ban hành quyết định bình thường hóa bang giao với Hà Nội, rồi đến tháng 11-2000, đích thân đến Việt Nam trong chuyến công du ngoại quốc sau cùng trên cương vị nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ.
Tổng Thống Hoa Kỳ tới VN năm 2000. Ảnh ttp://www.vietnambreakingnews.com/
(Còn tiếp phần II: Từ thập niên 1970 đến đầu thế kỷ 21)
Ghi chú:
(1) Tưởng Giới Thạch: Chiang Kai-shek.
(2) Quảng Tây: Guangxi.
(3) OSS: Office of Strategic Services – tạm dịch Phòng Tình Báo Chiến Lược, cơ quan tình báo của Hoa Kỳ thời Đệ Nhị Thế Chiến, và là tiền thân của Trung Ương Tình Báo (Central Intelligence Agency – CIA) ngày nay.
(4) Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa: VNDCCH (tắt), còn gọi là Bắc Việt, Anh ngữ là Democratic Republic of Vietnam.
(5) Năm 1949, Mao Trạch Đông (Mao Zedong) chiếm trọn Hoa Lục, đuổi người Hoa quốc gia chạy ra đảo Đài Loan (Taiwan), lập nước Trung cộng (nguyên tên Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa hay People’s Republic of China). Từ đây, Trung cộng bắt đầu gởi quân viện võ khí súng đạn lẫn cố vấn cho HCM và CSVN cho tới giữa thập niên 1970.
(6) Quốc gia Việt Nam, hay State of Vietnam, là quốc gia độc lập, được quốc tế thừa nhận, tồn tại từ 1949 đến 1955.
(7) Phái đoàn cố vấn quân sự: Military Assstance Advisory Group, gọi tắt là MAAG.
(8) Hội Nghị Geneva 1954: Geneva Conference (26-4 đến 20-7-1954).
(9) Hiệp Định Geneva: Geneva Accords.
(10) Việt Nam Cộng Hoà: VNCH (tắt), còn gọi là Nam Việt Nam, Anh ngữ là Republic of Vietnam, là quốc gia độc lập, được quốc tế thừa nhận, tồn tại từ 1955 đến 1975.
(11) Việt Nam hóa chiến tranh: Vietnamization.