Thưa bác sĩ, Tôi hơi tò mò về việc sâu răng tại sao và diễn tiến sâu răng thế nào. Xin bác sĩ giải thích cho nhé. Và nếu có thể xin cho biết cách ngừa sâu răng. Vân Lan
Đáp
Thưa bà, sâu răng là một loại bệnh nhiễm gây ra do các loại vi khuẩn. Quan sát các động vật không có vi khuẩn trong miệng đều cho thấy chúng không bị sâu răng.
Trong bệnh này, các sản phẩm chuyển hóa acid hữu cơ sinh ra do tác dụng của vi khuẩn trên thực phẩm dính kẹt trong răng miệng, làm mất dần calcium ở men răng. Từ đó răng bị sói mòn phá hủy dần dần.
Sâu răng có thể xảy ra cho bất cứ răng nào trong miệng cũng như bất cứ phần nào của răng. Răng mới mọc dễ hư hơn răng đã có từ lâu, vì thế khi mới mọc răng sữa hoặc răng thường là phải săn sóc kỹ hơn.
Vi sinh vật trong miệng làm hư răng nhiều nhất là loại Streptococcus Mutans, rồi đến loại Lactobacillus casei và Streptococcus sanguinis.
– Sâu răng diễn ra như sau:
Sau khi ăn một món thực phẩm nào đó, thì một phần nhỏ thực phẩm dính lại trên răng hoặc giữa các kẽ răng, tạo ra một mảng bựa (plaque). Bựa này là môi trường dinh dưỡng tốt cho vi khuẩn sinh sản. Bựa là hỗn hợp của 70% vi khuẩn và 30% chất đường, acid. Lâu ngày, calcium đóng vào bựa, bựa cứng hơn, bám chặt vào răng và nướu răng. Tại đó, vi khuẩn làm thực phẩm lên men, sinh ra acid lactic. Acid ăn mòn chất bảo vệ men răng nhờ đó vi khuẩn xâm nhập được vào cấu tạo răng để hủy hoại. Nửa giờ đầu sau khi ăn với mức độ acid lên cao nhất là lúc răng bị hư nhiều nhất. Diễn tiến này xảy ra rất âm thầm, đôi khi kéo dài cả vài năm và không gây đau đớn gì cho nạn nhân cho tới khi răng hỏng.
– Vệ sinh răng miệng, nói chung, gồm có:
– Đánh răng mỗi ngày hai lần, nhất là sau bữa ăn.
– Súc miệng sau khi ăn hoặc uống;
– Nhai kẹo cao su không đường trong 15 phút sau bữa ăn để nước miếng ra nhiều;
– Cọ khe răng mỗi ngày hai lần;
– Dùng kem đánh răng có fluoride;
– Súc miệng bằng dung dịch chlorhexidine;
– Bớt ăn thực phẩm ngọt hoặc có nhiều carbohydrate dễ lên men. Uống nước lạnh thay vì nước có hơi.
– Tới nha sĩ 2 lần trong một năm để rửa răng và chữa bệnh răng miệng.
Đục thủy tinh thể
Tôi đi khám mắt vì mắt mỗi ngày một mờ. Bác sĩ nói tôi cần phải mổ. Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân gây ra bệnh này và mổ như thế nào. Cảm ơn bác sĩ. Lê Tịnh
Đáp
Thủy tinh thể (lens) là bộ phận quan trọng tiếp nhận và hội tụ ánh sáng hình ảnh lên võng mạc (retina).
Ðây là một cấu tạo với hai mặt lồi (convex), trong suốt, gồm có nước và chất đạm, nằm ngay phía sau giác mạc và đồng tử. Thủy tinh thể (TTT) có một màng bọc, dưới đó là phần cùi, ở giữa là nhân nom tương tự như một quả mận với vỏ, cùi và hột mận.
Thực ra, đục thủy tinh thể hoặc Cườm mắt (cataract) không phải là một bệnh mà là hậu quả một thay đổi bình thường của sự hóa già. Ở tuổi trẻ, thủy tinh thể cũng có thể bị đục vì chấn thương hoặc do bẩm sinh.
Mới đầu, thủy tinh thể hơi mờ đục và chuyển dần từ mầu trắng sang mầu vàng hoặc nâu. Ánh sáng vào mắt sẽ giảm đi, hình ảnh trên võng mạc không rõ và biến dạng, lâu ngày đưa tới giảm thị lực.
Mỗi thành phần của TTT có thể đục mờ riêng rẽ.
Với tuổi già, phần nhân bị mờ nhiều hơn. Tiểu đường mờ phần cùi hoặc vỏ. Cận thị nặng hoặc dùng thuốc cortisone lâu ngày thường hay bị đục ở vỏ.
Ngoài hậu quả của sự lão hóa, đục thủy tinh thể còn thấy trong các trường hợp như khi mắt bị chấn thương, hút nhiều thuốc lá, uống nhiều rượu, do tác dụng của một số dược phẩm như thuốc lợi tiểu, cortisone, thuốc an thần, ô nhiễm môi trường, hóa chất độc hại, tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời quá mạnh, sống trên cao với ít oxy, hậu quả của một vài bệnh như tiểu đường, cao huyết áp, cao cholesterol, mập phì.
Một số trẻ em sanh ra đã bị đục thủy tinh thể.
Đục thủy tinh thể đưa tới khó khăn nhìn giống như nhìn qua cặp mắt kính phủ sương mù. Bệnh nhân không nhìn rõ khi có quá ít hoặc quá nhiều ánh sáng, không coi được TV, khó khăn lái xe, dễ gặp tai nạn. Muốn đọc sách báo, họ phải mang kính phóng đại (magnifying glasses). Hậu quả là người đó ngại ngùng không muốn đi đâu và mất sự tự chủ, độc lập.
Trước đây, kỹ thuật mổ đòi hỏi cườm phải “già” cứng (ripen hoặc mature) để được dễ dàng “múc” ra, khiến cho người bệnh phải đợi một thời gian với kém thị giác.
Thực ra, sự “chín” của TTT không quan trọng bằng chính khó khăn mà người bệnh cảm thấy.
Trước khi mổ, họ có thể thay cặp kính mới hoặc dùng kính lúp. Khi nào thị giác kém hẳn, gây ra trở ngại cho các sinh hoạt hàng ngày thì mổ cũng chưa muộn.
Phẫu thuật được làm ngay tại phòng mạch bác sĩ chuyên về nhãn khoa và bệnh nhân có thể về nhà sau khi giải phẫu hoàn tất mỹ mãn.
Thường thì không cần đánh thuốc mê mà cần chích chút thuốc tê nơi mắt hoặc nhỏ mắt với mấy giọt thuốc tê và uống vài viên thuốc an thần.
Thủy tinh thể có thể “múc” ra trọn bộ với vỏ, cùi và nhân hoặc để vỏ lại, chỉ lấy cùi và nhân. Rồi thay thế bằng TTT nhân tạo làm bằng chất silicone hoặc acrylic.
TTT nhân tạo rất mềm, bẻ cong được, do đó chỉ cần rạch vài ba mili mét là đủ để thay TTT mới. Vết mổ nhỏ, tự lành, đôi khi không cần khâu
Theo thống kê, tỷ lệ thành công của vi phẫu thuật thay thủy tinh thể nhân tạo rất cao, lên tới 97%.
Sau khi mổ, nhiều bệnh nhân rất thỏa mãn, nói mắt sáng như đèn pha ô tô, nhìn rõ ràng mọi sự vật với mầu sắc đầy đủ. Họ trở nên tự tin, yêu đời hơn.
Sau khi mổ, một số bệnh nhân vẫn phải mang kính lão để đọc chữ hoặc kính hai tròng để nhìn vật ở xa.
Tuy nhiên đôi khi một số rủi ro hậu giải phẫu có thể xảy ra như nhiễm trùng, chảy máu, sưng phù giác mạc, cao áp suất trong mắt và bong võng mạc đặc biệt là ở người cận thị. Phẫu thuật gia đều có sẵn các phương thức để chấn chỉnh các rủi ro này.
Sau giải phẫu về, nên giữ gìn mắt theo hướng dẫn của bác sĩ, tránh làm việc nặng trong vài ngày.
NYD