Trong bài trước nhớ về một thời dưới bóng quê nhà, Nguyễn đã viết: Có bao giờ, Ngăn và Dao Ca về ngồi lại tarên bờ biển Quy Nhơn, trong đêm mơ hồ những ánh lửa cô đơn, đọc lại những câu thơ ngày nào. Và tưởng tượng…
gió mùa
gió mùa
thổi qua
thổi qua
thổi qua những biên thùy. rào cản
những ước định của người
những tấm lòng phân chia biên giới
những màu da
những dòng nước mắt
gió mùa
gió mùa
thổi qua
thổi qua
Như thế đó, chúng ta đều mơ một ngày không còn những bức tường, rào cản, những cột mốc phân chia giữa những bến bờ… Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay, sự thù hận và phân biệt vẫn còn, và những bàn tay gân guốc còn siết chặt cổ họng người.
Vâng. Cho tới ngày hôm nay, chúng ta đã bị tách rời ra khỏi đất nước tới hằng chục năm và chưa biết tới bao giờ… Từ trên những xa lộ của xứ người, mãi mãi còn nhìn thấy những cánh chim trời bạt gió. Nhà thơ Cao Tần, tức Lê Tất Điều, dừng chân bên một bờ hồ đất lạ, viết:
Nói nghe coi này cổ thụ ven hồ
Kể từ những trăm năm dài đứng đó
Có gặp khi nào một kẻ xác xơ
Lòng sầu hận hơn kiếp người da đỏ
Những bài thơ viết trên đất người, ở những năm tháng đầu của cuộc sống lưu vong tị nạn, hiện lên cả một trời uất hận và tuyệt vọng:
Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
Gánh sơn hà toan chất thử lên vai
Chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
Dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng uất hận gối lên nhau
Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
Ta làm gì cho hết nửa đời sau?
(thơ Cao Tần)
Tác giả cùng Đinh Cường tại cafe’ Trieste
Kẻ này với Lê Tất Điều có chút quen biết xưa. Một đêm, trước Ngày Sụp Đổ Lớn, hai đứa nằm trên chiếc bàn ở phòng vi âm Đài Tiếng Nói Quân Đội Sài Gòn, Lê Tất Điều cho biết ngày mai anh sẽ đưa cả gia đình ra Phú Quốc tìm đường đi. “Chúng ta chiến đấu chống Cộng Sản gần hai mươi năm như thế đã là anh hùng lắm rồi…”
Và Lê Tất Điều ra đi từ đó. Riêng kẻ này phải hai mươi năm sau mới khóc giã từ màu phượng đỏ của thành phố Sài Gòn. Ở Mỹ, Nguyễn biết Lê Tất Điều cư ngụ ở San Diego, vậy mà chưa một lần ghé thăm bạn. Tới đây, khi có dịp, sẽ nhờ Nguyễn Đắc Điều đưa tới thăm nhau, để chỉ hỏi một câu: Hơn ba mươi năm qua rồi, đã quên hết buồn chưa và hiện tại đang nghĩ gì, viết gì…
Một người nữa bao năm vẫn không quên căn cước tị nạn của mình. Đó là nhà thơ Cao Đông Khánh, tác giả Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn, nổi tiếng một thời. Thơ của Khánh là lịch sử thuyền nhân dưới những góc nhìn táo bạo, khốc liệt nhưng vẫn tiềm ẩn hồn thơ. Nhớ một lần Cao Đông Khánh nói với Nguyễn khi nghĩ tới việc đi đọc thơ ở các Đại Học như Harvard University chẳng hạn: Chúng ta phải mau mau chiếm lãnh sân khấu kẻo mai đây khi những kẻ ngoại đạo kia tràn ngập sẽ không còn không khí để thở. Khoảng năm 2000, khi biết Nguyễn làm tờ Phố Văn, Khánh gởi tới một bài thơ đặc sắc Trăng Trong Vịnh Frisco và hứa sẽ đóng góp bài vở thường xuyên. Tiếc thay, Khánh vội ra đi còn Nguyễn đã không giữ được số báo có bài thơ của Cao Đông Khánh (hình như Phố Văn số 1 hay 2 gì đó). Trong trí nhớ mù sương của mình chỉ còn lại dăm câu như những đốm lửa trời: hãy nói lớn tiếng giữa những “con cái hiếu đễ của Satan diễn tấn tuồng Tân Ước / Trò chơi tín ngưỡng trí trá trù yểm / Chẳng thà em, khuôn viên, hư thực. Make Love Not War / Hoa cúc dại nở trong kẹt háng thơm mùi mặt trời mọc”. Thơ Cao Đông Khánh như thế đó, những câu thơ viết ở quê người đầy oan khốc nhưng cũng vô cùng thơ mộng.
Bạn của Nguyễn còn nhiều người nữa như Phan Xuân Sinh, Đức Phổ, Ngu Yên, Trần Phù Thế, Hoàng Xuân Sơn, Phạm Cao Hoàng, Lữ Quỳnh, Nguyễn Thanh Châu…, cũng viết thơ trên những quảng trường của thời đại, cất lên tiếng nói đích thực của phận người trí thức lưu vong như Czeslaw Milosz, Joseph Brodsky. Riêng Đinh Cường vừa viết vừa vẽ. Bao năm rồi, như hoa vẫn mọc trên đá. Với Nguyễn, khi “Nói với chim én ở San Juan Capistrano” Nguyễn tưởng như mình đã quên hết buồn xưa
ngọn gió santa ana
thổi trên trí nhớ
của những chùm bông giấy
kêu. bằng hợp âm
san juan capistrano
ôi. chim én
đã về. dưới mái nhà thờ ngói đỏ
thành phố biển
san juan capistrano
như niềm vui của trời
Nhưng không, nỗi buồn vẫn còn đó, nhưng giờ đây đã mở ra cùng thế giới
ôi. dallas
nơi tôi đã đến. đã ở hơn mười lăm năm. đã viết
văn làm báo
và sẽ ra đi
vầng trăng trong cỏ rối
còn lại bao lâu. những bài thơ. lúc chia tay
không ai vẫy chào. không giọt lệ
và buổi chiều. tiếng cười trên góc phố
tiếng cười
như thủy tinh. vỡ
dường như. dường như. rất quen
Có lần, Nguyễn viết: Tâm hồn tôi giờ đây dường như không còn biên giới nữa. Tôi đã biết thích crawfish, pizza, steak ở Trail Dust… Và yêu nhạc blues, bông hoa hippie, thơ beat… Cho nên Nguyễn lấy làm hứng khởi khi đọc bài đoản văn của một người ký tên Đỗ. Xin trích một đoạn đăng lại sau đây, để các bạn cùng chia sẻ.
… “Nếu bạn đến San Francisco, đừng quên cài một bông hoa lên mái tóc…”
Hơn 40 năm trước, tay hippie cao kều Scott MacKenzie ngồi xếp bằng nghêu ngao ca khúc danh tiếng này của John Phillips. Bông hoa ấy chính là những bông hoa năm cánh màu vàng cam, biểu tượng của phong trào hippie đã từng tràn ngập trong giới trẻ Mỹ và loang đi khắp thế giới…
Những bông hoa hippie ngày ấy -than ôi- giờ đã lụi tàn: nó đã trở thành thì quá khứ của một lịch sử không dài, nhưng dấu tích hippie vẫn còn được “bảo tồn” bằng khu phố Haight-Asbury dài chưa đến một cây số. “Làng hippie” ngày xưa nay trở thành con phố chen chúc các quán ăn Tibet, Cuba, cửa hiệu sách cũ, đồ lưu niệm, quần áo mũ nón, đĩa nhạc, poster… của một thời vàng son. Và người khách châu Á túi vải áo nâu dáng vẻ như một thiền sư đang chúi mũi vào giá sách cũ kia biết đâu chính là một chàng hippie, chàng beatnik thuở nào đang tìm lại ánh hồi quang một thời vang bóng? (Trích theo Đỗ Trung Quân. Tiền Vệ)
Và viết ở Caffe Trieste…
Caffe Trieste có một lịch sử. Lịch sử ấy bắt đầu từ đâu, không quan trọng: từ cái anh chàng thanh niên ngư dân nghèo Giovanni Gianni của vùng Trieste ở Ý, mười lăm tuổi đi học hát opera, hay từ gã lau chùi cửa kính ở San Francisco những ngày đầu di cư qua Mỹ,… Cái tên lịch sử này tọa lạc ở số 601, trên góc phố Vallejo/Grant, là tiệm cafe espresso & cappuccino đầu tiên mở ở bờ biển phía Tây California năm 1956 (nay vẫn còn hơi ấm hồi tưởng của cái bàn nơi Francis Ford Coppola ngồi nhiều tháng trời đẽo gọt kịch bản The Godfather, cũng là nơi một thời từng trở thành “phòng khách” của Jack Kerouac, Allen Ginsberg và những nhà thơ beatniks bạn bè, nói cách khác, của cả một Beat Generation). Từ khi khai trương cách nay hơn nửa thế kỷ, Caffe Trieste đã nổi tiếng với cách kết hợp từ phong vị nước Ý cổ xưa, đến thơ ca Bohemien, âm nhạc và nghệ thuật. It has become famous across the world for its combination of essences: Old Italy, Bohemian poets, art and music, and excellent Espresso. Caffe Trieste đã đi vào nhiều tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ danh tiếng thế giới như Czeslaw Milosz, Joseph Brodsky… Sau đây là Brodsky và Caffe Trieste:
Trên góc phố này
giữa Vallejo và Grant
tôi đã trở về
như một tiếng dội
với đôi môi giờ đây
thích nụ hôn hơn chữ nghĩa
Ở đây chẳng có gì thay đổi
Kể cả bàn ghế kể cả thời tiết…
(Joseph Brodsky-Café Trieste: San Francisco, 1980).
Caffe Trieste… Ông chủ Papa Gianni nay đã trên 85 tuổi. Năm 2006, Caffe Trieste tròn 50 tuổi. Tất cả những nhà thơ danh tiếng (Tutti poeti -theo cách nói pha tiếng Ý của Papa) thường ngồi đây, trong những đêm đọc thơ, trình diễn nhạc jazz và nhạc cổ điển… Xưa vốn thế và bây giờ vẫn thế… Ngồi ở đây, trong hơi gió biển từ vịnh San Francisco thổi về mà như nghe những tiếng động của nhịp bước thời gian. Ôi, tiếng đàn thùng… Nguyễn những ước mong một ngày kia được ngồi ở đó và viết bài thơ Caffe Trieste, tiếp nối Brodsky… Cũng là lãng du dưới trời lưu xứ.
TN – 2010
Viết thêm sau khi đọc lại tháng 7. 2015: Cách đây 2 năm (2013) Nguyễn và Đinh Cường đã tới Caffe Trieste. Cùng đi có Hải Phương và Quận, Nguyễn Trí Minh Quang, cũng vào mùa hè nắng rực rỡ. Hỏi thăm Papa Giani còn hát không, người trong quán trả lời chỉ thỉnh thoảng vào những dịp đặc biệt thôi. Thế nhưng Nguyễn vẫn thấy ông thấp thoáng đâu đó trên những bức tranh và ảnh trên tường và trên bàn ghế cùng hương cà phê thoảng bay.