Menu Close

DƯA GANG, DƯA BỞ, DƯA HỒNG: Những trái cây giải khát vừa ngừa Ung Thư, vừa chữa bệnh Gan

Dưa là một trong những trái cây thông dụng tại Việt Nam ngoài Dưa Leo được dùng làm rau trong các món ăn và Dưa Hấu dùng làm trái cây giải khát, cúng tế trong dịp Tết; các giống Dưa khác như Dưa Gang, Dưa Tây (Melon), Dưa Hồng (Cantaloupe), đều là những trái cây được ưa chuộng.

cantaloupe

Ảnh minh họa. NGUỒN: BONNIEPLANTS.COM

Người Trung Hoa dùng Dưa để trị Sưng Gan. Người Guatamela ăn Hạt Dưa để trừ Sán, Lải. Philippines dùng Dưa trị Ung Thư và giúp điều kinh; và tại Phi Châu Dưa nấu thành cháo để phá thai !

TÊN KHOA HỌC:

Cucumis melo, thuộc họ thực vật Cucurbitaceae. Mỹ gọi dưới nhiều tên tùy theo loại như Melon (Pháp là Melon, Đức là Melone); Cantaloup (Pháp là Melons cantaloupes); Honey Dew (Melon White Antibes). Đông Y dùng Hạt Dưa để làm thuốc và gọi vị thuốc này là Cam Qua Tử với phiên âm Kan-kua-tzu. Đọt non của cây cũng dùng làm thuốc với tên Qua đế hay Kua-ti.

LỊCH SỬ VÀ ĐẶC TÍNH THỰC VẬT:

Mới đây, nhà cầm quyền Turkmenistan đã ra một sắc lệnh công bố lấy ngày Chúa Nhật thứ nhì của tháng tám hàng năm là ngày quốc gia ăn mừng Dưa Gang!. Sắc lệnh này có vẻ kỳ lạ với chúng ta nhưng thật ra, Dưa Gang, từ hàng chục thế kỷ đã là thành phần của văn hóa dân tộc Turkmenistan như Trầu và Cau với dân Việt vậy. Turkmenistan nằm về phía Bắc Iran, bên bờ biển Caspien với một khí hậu nóng bức kéo dài và đất khô cằn, lý tưởng cho việc trồng Dưa Gang. Năm 1259, nhà lữ hành Trung Hoa Trương Tế đã tìm ra những quả Dưa Gang, Nho và Lựu rất tốt trong vùng này.

Dưa Gang, Dưa Hồng.. đều chung một gia đình với Dưa Leo, Dưa Hấu; có nguồn gốctrong vùng Cận Đông, có lẽ là Đông Bắc Ấn Độ rồi từ đó lan sang Âu Châu. Dưa Gang được đưa vào Trung Âu vào thời Đế Quốc La Mã nhưng mãi đến thế kỷ 15 mới trở nên thông dụng, nhất là tại triều đình Pháp. Hạt Dưa Gang được Columbus đem sang Haiti và cây gặp đúng vùng đất đai, khí hậu thích hợp nên phát triển khá nhanh. Các giống Dưa có thể lai giống và pha trộn rất dễ dàng đến mức các nhà vườn muốn bảo vệ giống đã phải trồng riêng rẽ từng loại Dưa cách xa nhau đến cả 500m!.

Dưa được đưa vào Hoa Kỳ từ 1900 và Arizona, rồi California đã trở thành những tiểu bang đứng hàng đầu về sản xuất Dưa. Tại Hoa Kỳ, Dưa Gang có mặt quanh năm trên thị trường và rộ nhất trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 9.

Cây Dưa thuộc loại cây có thể leo nếu có giàn và cũng có thể bò lan trên mặt đất nếu không gặp được cọc hoặc giàn. Dưa phát triển nhanh nhờ những sợi tua. Lá với cuống khá dai, hình thận, có thể phân thành 3 đến 5 thùy, có lông trên mặt lá. Cây thuộc loại đơn phái, có hoa đực và cái khác hẳn nhau tuy cùng mọc trên một cây. Hoa nhỏ, với những cánh màu vàng. Dưa được thụ tinh qua trung gian của ong, bướm, nhưng nếu muốn bảo tồn giống thì nên dùng phương pháp thụ tinh nhân tạo bằng cách dùng bàn chải mềm để chuyển phấn của hoa đực sang hoa cái. Trái có màu sắc và hình dạng thay đổi tùy giống, từ dài theo kiểu Dưa Leo đến tròn như Bí Ngô.

Dưa thích hợp với đất phù sa màu mỡ và nhiệt độ nóng ẩm, nhất là những vùng cồn hoặc cù lao giữa những nhánh sông trong vùng nhiệt đới. Vùng trồng Dưa tốt nhất tại Việt Nam là vùng Cồn ở cửa sông Tiền và Hậu Giang. Tại miền Trung, vùng tốt nhất là vùng bãi cát sông Đà Rằng dưới cầu Tuy Hòa.

Những Giống Dưa:

Có rất nhiều giống Dưa nhưng thông dụng nhất là các loại Dưa Hồng (Cantaluope), Dưa Gang (Melon) và Dưa Bở (Honey Dew)

. Cantaloupe (Cucumis melo cantalupenis): loại này còn gọi là Muskmelon, có nguồn gốc từ Ấn Độ và Guinea, đã được trồng từ hơn 2 ngàn năm. Tên xuất phát từ thành phố Cantalupo (Ý), một nơi có nhà nghỉ hè của các Vị Giáo Hoàng ở ngoài Rome và được cho là nơi trồng Dưa này từ thế kỷ 16. Dưa có vỏ ngoài nhăn nheo, sù sì nhưng thịt màu đỏ cam..

. Casabas (Cucumis melo indorus): Loại Dưa này gốc từ Kasaba (Thổ Nhĩ Kỳ). Dưa to và tròn cỡ bí ngô, da ngoài vàng nhạt hoặc xanh nhạt, thịt trắng ngà nhưng mềm và ngọt. Khi chín Dưa Casabas có thể gọi là Dưa Bở, có mùi thơm thoang thoảng rất dễ chịu.

. Crenshaws: Loại này là do sự lai tạo giữa Casaba và Dưa Ba Tư (Persian melon) để tạo ra những trái lớn đến 4-5kg. Được xem là “vua của loài Dưa” với vị khá ngọt, mùi thơm, thịt chắc, màu đỏ sậm.

. Honey Dew (Cucumis melo species): Loại này thịt có màu Xanh hoặc Cam, nguồn gốc từ Á Châu và được xem là trồng từ Ai Cập từ những năm 2400 trước Tây Lịch. Giống Dưa hiện nay được phát triển là giống từ Dưa Pháp White Antibes. Dưa Honey Dew tương đối ngọt và thơm.

. Perian Melons: Đây có lẽ là thủy tổ của các giống Dưa. Dưa Ba Tư rất được ưa chuộng do mùi thơm ngào ngạt, thịt chắc, màu cam đậm, nhiều nước và rất ngọt.

THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG:

100g phần ăn được chứa:                           Cantaloup           Honey Dew

–          Calories                                        35                           35          

–          Chất Đạm                                     0.88g                     0.46g

–          Chất Béo                                       0.28g                     0.10g

–          Chất Sơ (Fiber)                               0.36g                     0.60g

Các Khoáng Chất:

–          Calcium                                         11g                         6g

–          Sắt                                                0.21mg                 0.07mg

–          Magnesium                                     11mg                     7mg

–          Phosphorus                                    17mg                     10mg

–          Potassium                                      309mg                   271mg

–          Sodium                                          9mg                       10mg

–          Kẽm                                              0.16mg                 không rõ

–          Đồng                                             0.042mg               0.041mg

–          Manganese                                    0.047mg               0.018mg

Các Vitamin:

–          Beta Caroten (A)                      3224 IU                 40 IU

–          Thiamin (B1)                            0.036mg               0.077mg

–          Riboflavin (B2)                          0.021mg               0.018mg

–          Niacin (B3)                               0.574mg               0.600mg

–          Pantothenic acid (B5)               0.128mg                0.07mg

–          Pyridoxin (B6)                          0.128mg               0.059mg

–          Folic Acid (B9)                          17mcg                   không rõ

–          Vitamin C                                42.2mg                 24.9mg

–          Tocopherol (E)                         0.14mg                 không rõ

DƯA VÀ SỨC KHOẺ:

Dưa Gang, Dưa Hồng.. đều là những trái cây lý tưởng để giải khát, mang lại nước và muối khóang cho cơ thể. Dưa chứa đến 90% nước (tính theo trọng lượng) nên rất thích hợp cho những tháng nóng trong mùa hè.

Trong Dưa có lượng khá lớn Silicon nhất là trong phần cùi trắng thật sát với vỏ bên ngoài. Dưa Cantaloupe chứa Adenosine, rất tốt cho người có bệnh tim mạch, giúp ngừa sự đóng cục của máu, bảo vệ người bệnh tránh được stroke. Các nghiên cứu tại Agentina và Đức cho thấy Dưa có khả năng ngăn ngừa sự kết tụ của các tiểu cầu (platelet) giúp tránh được sự đóng cục của máu. Khi hiến máu, nếu người cho máu trước đó đã dùng Aspirin thì tiểu cầu chậm đông kết, và Dưa nếu phối hợp với Aspirin lại còn làm chậm sự đông máu hơn nữa.

Khả năng ngừa ung thư của Dưa đã được nghiên cứu tại Ý và Thụy Sĩ. Các nhà khoa học đã so sánh cách ăn uống của 575 người bị ung thư ruột già với 778 người không bệnh và tìm thấy nơi người lành mạnh thực đơn chứa nhiều Dưa hơn, và ăn Dưa giúp tỷ lệ ung thư ruột bớt xuống được đến 40%. Hoạt chất để ngừa ung thư được cho là do ở những Carotenoids có khá nhiều trong Dưa. Một nghiên cứu khác được thực hiện vào năm 1985 tại Massachusetts, trên 1271 người ở vào lứa tuổi trên 62 cho thấy những người ăn nhiều rau xanh, kể cả Dưa tươi đều ít bị ung thư hơn.

Ngoài ra, với tỷ lệ Beta-Carotene khá cao, Dưa có thể giúp ngừa được ung thư phổi, nhất là nơi người nghiền thuốc lá. Để trị bệnh yếu gan gây vàng da, dân vùng Caribbean dùng một phương thức khá đơn giản là ăn Dưa khi vừa chín tới và uống trà dược nấu bằng ngò tây mỗi ngày.

Với người Trung Hoa, Dưa Gang được dùng để giải khát, làm giảm bớt nhiệt (nóng) trong người, giúp tăng tiểu tiện, rất thích hợp cho những người bón uất. Có nhiều loại Dưa tại Trung Hoa và họ thường gọi là hương qua. Dưa được trồng khá nhiều tại những vùng thung lũng sông Hoàng Hà, nơi có khí hậu khô khá thích hợp. Thành phố Tun-hoang được xem là “thủ đô Dưa”của Trung Hoa vì nơi đây sản xuất ra những loại Dưa ngon nhất của Tàu.

DƯA GANG, DƯA HỒNG VÀ Y DƯỢC PHƯƠNG ĐÔNG

. Dược học Ấn Độ: Ấn Độ xử dụng nhiều loại Dưa để trị những bệnh khác nhau.

–          Dưa Gang, được gọi là Kharbuja, trái dùng trị bệnh lở ngoài da eczema và để lợi tiểu. Trong khi đó hạt dùng giúp hạ nhiệt, làm mát cơ thể.

–          Dưa Gang Hồng (Cucumis melo var.utilissimus) với tên theo Phạn ngữ Bahukanda: hạt được dùng để trị tiểu gắt hoặc có cảm giác đau buốt khitiểu tiện.

. Dưa Gang, Dưa Hồng trong Đông Y: Đông Y đã dùng Hạt và Cuống dưa non để làm thuốc.

  1. Hạt Dưa: Hạt Dưa Gang đã được ghi chép trong Minh-Y Biệt Lục dưới tên Cam qua tử (hạt Dưa ngon) hoặc Điềm qua tử. Cam qua tử có vị ngọt, tính hàn và có tác dụng làm tan được sự ứ đọng và bế tắc của máu. Có thể giúp tẩy sạch Phổi và làm nhuận Ruột. Cam qua tử chữa được đầy bụng, trị khát và Ho.

Theo Đông Y hiện đại thì Hạt Dưa có tác dụng trị giun sán: Dung dịch trích bằng nước, acohol và Dầu từ Hạt Dưa ngọt diệt được sán lải khi thử trên Mèo. Trích tinh từ Hạt Dưa ngọt cũng có tác dụng sát trùng, trừ được một số Nấm mốc.

  1. Cuống Dưa Non (Melon pedicle): Vị thuốc này hay Pedicellus Cucumeris, được Đông Y gọi là Qua-đế với phiên âm Gua-di. Nhật Dược cũng dùng Cuống Dưa với tên gọi Katei. Cuống Dưa được xem là có vị đắng, tính hàn và hơi độc, tác dụng vào kinh mạch thuộc Vị (bao tử). Vị thuốc này có tác dụng:

–          Gây ói mửa để giải trừ sự ứ tắc thực phẩm, nhất là các trường hợp ứ đọng nơi phần thượng của hoành cách mô, kể cả nhiệt ứ nơi ngực đưa đến co giật, tức nghẽn nơi họng, hơi thở khò khè, bức rứt và mất ngủ.

–          Phân tán nhiệt thấp và trị được Hoàng đản, tốt nhất là những trường hợp vàng da do “thấp” tạo ra.Khi dùng bằng cách nhỏ thuốc qua mũi, thuốc rất hiệu nghiệm để trị các chứng vàng Da kéo dài nơi mặt và mắt cùng với nhức đầu và nghẹt mũi. Khi trị sưng và nghẹt mũi, Qua Đế được phối hợp với Hoàng Liên và Bình Phấn (Borneol)

. Đặc tính Dược Học theo Đông Y hiện đại: Dược học Trung Hoa hiện đại đã nghiên cứu khá kỹ về tác dụng của Cuống Dưa Gang: Cuống Dưa Gang chứa các chất Cucurbitacin B, Cucurbitacin E, Cucurbitacin D, Isocucurbitacin B và Cucurbitacin-Beta-2-O-Beta-D-Pyranoglucoside.

–          Tác dụng gây ói mửa: Thử nghiệm lâm sàng và trên thú vật đều cho thấy uống nước trích từ Cuống Dưa Gang gây ói mửa khá mạnh nhưng khi chích lại không có tác dụng. Khả năng gây ói mửa là do tác dụng kích thích vào viêm mạc của bao tử và gây ra phản ứng “phản hồi” vào trung khu gây ói mửa nơi óc.

–          Tác dụng trên Gan: Khi thử nghiệm về tác dụng bảo vệ Gan của Cucurbitacin B/E trên thú vật đã bị gây hư hại Gan bằng Carbon tetrachloride thì thấy rằng trích tinh thô Cuống Dưa giúp làm giảm được tỷ lệ của phân hoá tố Transaminase trong máu (Khi Gan bị hư hại, tỷ lệ phân hóa tố này tăng rất cao). Nếu xem trên kính hiển vi thì số tế bào Gan bị hư cũng giảm bớt khá rõ rệt. Riêng Cucurbitacin B lại làm gia tăng khả năng tồn trữ glycogen, ngăn chặn sự biến đổi Mỡ nơi tế bào Gan. Các thử nghiệm dài ngày cho thấy các trường hợp sơ gan đều giảm bớt. Khi thử tại các bệnh viện để trị các trường hợp sưng gan kinh niên thì các kết quả cho thấy Gan bớt sưng, triệu chứng vàng da giảm bớt và tỷ lệ transaminase cũng giảm xuống

–          Tác dụng trên sự miễn nhiễm tế bào: Khi cho uống hoặc nhỏ mũi chế phẩm từ Cuống Dưa nơi những người sưng Gan thì thấy con số các tế bào bạch huyết gia tăng và điều này rất tốt cho người bị sưng Gan.

D.S Trần Việt Hưng