Cách đây đã lâu, giáo sư Nguyễn Văn Trung trên tạp chí Văn Học số 200, đặt vấn đề về những cách tiếp cận lịch sử trong tiểu thuyết [1]. Bằng tất cả những cẩn trọng, tri thức và kinh nghiệm của một đời dạy học, cầm bút, đã hướng đạo biết bao thế hệ sinh viên miền Nam, giáo sư đã lần lượt điểm qua một số tác giả chuyên lôi lịch sử vào trong sáng tác [2], phê bình [3], chính trị [4], sử ký [5], tiểu luận [6], điểm sách [7]… Với thái độ thẳng thắn tranh luận, tôn trọng các tác giả dù không đồng ý, bằng giọng văn trầm tĩnh ông đã khai triển và đúc kết: Không nên sử dụng lịch sử một cách tùy tiện trong mọi lãnh vực.
Tôi hiểu như vậy, với riêng cá nhân mình, cũng chuyên lôi lịch sử vào trong sáng tác. Bài viết dưới đây, không phân tích một cách chính thức những luận điểm của giáo sư, nhưng trình bày một góc độ của sáng tác, cho riêng bộ môn tiểu thuyết. Một bộ môn của hư cấu.
Tranh Zhang Lu Huang Weibang, 1752, bộ sưu tập cựu hoàng của Hoàng đế Càn Long – NGUỒN ALAINTRUONG.COM
Ở thời điểm tháng 12-2002, giáo sư Nguyễn Văn Trung khẳng định: “Người viết truyện về Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ cần phải dựa vào tài liệu sử như người viết sử và cần hơn người viết sử nữa. Vì tiểu thuyết lịch sử không những chỉ cần tài liệu sử liên quan trực tiếp đến các nhân vật lịch sử về đời công, hoạt động chính trị, quân sự, cầm quyền, bối cảnh chính trị, xã hội thời đại của họ, mà còn cần tài liệu liên quan đến đời tư (gia đình, tình cảm, giao tế, cách ăn mặc). Người viết truyện sẽ dựng lại cuộc sống cụ thể của họ trong hoàn cảnh và thời đại… Ðặc biệt các đoạn văn tả các nhân vật đối thoại với nhau: lối xưng hô như thế nào thời đó.” Ông đặt câu hỏi: “Viết sử hay tiểu thuyết lịch sử về Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ, về thời kỳ nội chiến, có nên chỉ bằng lòng với những tài liệu như Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Ðại Nam Thực Lục Tiền Biên, Hoàng Triều Ngọc Phả, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Phủ Biên Tạp Lục, v.v.. hay không? hoặc một vài tài liệu ngoại quốc đăng trong tập san Sử Ðịa-Sàigòn trước 1975 (do cô Ðặng Phương Nghi thực hiện)?” Rồi ông trả lời, nên tham khảo thêm tài liệu của các dòng tu, hội truyền giáo, của những cố đạo Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, Hoà Lan thế kỷ 16, 17, “về đời sống hằng ngày của dân chúng, những điều mắt thấy tai nghe tại chỗ, ở nông thôn… được ghi lại trong thư từ của các giáo sĩ, loại thư riêng gửi về cho gia đình, bạn bè hay bề trên.” Và kết luận: “Trong số những nhân vật có bộ mặt phải, mặt trái, có thể có Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh như những cá nhân cụ thể, có tên tuổi. Ðó chỉ mới là nêu lên như giả thuyết, cần những tư liệu bằng cớ không thể chối cãi được xác minh rằng Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh quả thực có như thế. Nếu không làm việc này thì là vu khống, chụp mũ, xúc phạm.”
Với tất cả lòng tôn kính giáo sư, tôi vẫn không đồng ý. Tại sao viết tiểu thuyết phải y chang như thật vậy? Và tại sao phải kiêng cữ như giáo sư nhắc nhở, đề nghị: “Người viết tiểu thuyết có thể không làm việc của người viết sử, mà vẫn nói lên được những điều muốn nói, một cách thật đơn giản là không nêu tên những nhân vật cụ thể, chỉ đặt cho họ một cái tên gì đó mà người đọc vẫn có thể hiểu là nói đến Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ. Ðây là việc mà các nhà viết tiểu thuyết thường làm: tạo dựng những nhân vật tưởng tượng (hư cấu) mà người đọc không thể không liên tưởng đến những nhân vật có thật bất kể đã chết hay còn sống.”
Thay tên là một hình thức kỵ húy [8]. Ðến hôm nay nền Quân chủ Phong kiến đã cáo chung trên đất Việt, nhưng nhà văn Việt vẫn cứ phải kỵ húy theo quán tính và kỵ húy luôn cả những gì chưa cáo chung, còn đang sống, chưa chết (từ Phong kiến đến Cộng sản không mấy khác). Có phải vì dân tộc Việt chưa bao giờ lôi Hoàng thượng của mình ra chém đầu công khai giữa chợ nên mọi thứ liên quan đến mình Rồng vẫn còn thiêng liêng cần thờ phượng, cúng bái?
Dân tộc Pháp không vậy, họ lôi vua Louis XVI và Hoàng hậu Marie-Antoinette ra giữa quảng trường Concorde (Ðồng Tâm), trước công chúng, chém một đường đao giông bão không chùn tay. Lúc đó, không ai cần biết vua Louis có bị vu khống hà hiếp nhân dân, chụp mũ phản quốc, và mình Rồng đang bị xúc phạm nặng nề? Tất cả chỉ muốn chấm dứt một sự thiêng liêng đã kéo quá dài mà không ai hài lòng và cách chấm dứt triệt để nhất là chém phăng đi thủ cấp nhà vua. Chắc chắn, cuộc cách mạng quyết liệt của Maximilien de Robespierre đã ảnh hưởng đến cách viết tiểu thuyết về sau trong giới sáng tác Tây phương mà cho đến lúc đó, chỉ có thể hư cấu dịu dàng… “Máu thấm ướt áo đầm nhung của Hoàng hậu, khi chết vẫn còn giữ nụ cười trinh nguyên công chúa của thời con gái sống trong cung điện lộng lẫy của Hoàng đế Phổ Francois đệ nhất.” Tiểu thuyết gia Tây phương khi chứng kiến hành quyết, trông thấy chiếc máy chém, có lẽ, đã nghĩ từ đây họ có thể hư cấu tự do, táo bạo hơn, không còn nỗi sợ hãi cung đình ám ảnh. Có thể sáng tác: “Máu thấm ướt áo đầm nhung của Hoàng hậu, khi chết vẫn còn giữ nụ cười tinh quái trông thấy đầu của người đàn ông ngoại tình bội bạc rơi xuống trước, còn ngửi ra hơi thở thum thủm ở miệng đức vua không bao giờ còn quát tháo, động đậy. Marie-Antoinette thỏa mãn cho chính những giọt máu của bà đang chảy ra, làm như Hoàng hậu hãy còn muốn nhìn ngắm dòng máu đỏ thắm của mình lần đầu tiên trôi chảy tự do trên những phiến đá xanh mà chưa bao giờ bà được một lần thong dong thảnh thơi dạo bước. Marie-Antoinette chỉ nhắm mắt khi biết chắc thủ cấp đã hoàn toàn rời khỏi xác, chấm dứt một kiếp sống mà bà chưa bao giờ mong muốn, lát nữa, Hoàng hậu sẽ trở về Áo, nơi bà đã yêu say mê vĩnh viễn tiếng vĩ cầm trác tuyệt của một thanh niên kỳ tài Ludwig Van Beethoven…”.
Các đoạn văn trên do tôi tưởng tượng, theo cách hư cấu của tiểu thuyết bây giờ, giống như Christophe Bataille, khi hai mươi tuổi đã mô tả Hoàng tử Cảnh bước chân lẫm chẫm trong cung điện Versailles vang tiếng ợ buồn bã ủ rũ của vua Louis XVI, tiếng ợ âm u qua những đại sảnh giát đầy kính còn phản chiếu ánh mắt lạnh lùng của Hoàng hậu…
Ðó là tâm tình của dân tộc Pháp và nền tiểu thuyết Pháp. Một nền tiểu thuyết tự do thường xuyên lôi Nã Phá Luân ra hư cấu đủ mọi cách, châm biếm, trào phúng, hí lộng, chế giễu, bất kể đạo lý của những bầy tôi hậu duệ. Truyền hình Pháp còn có cả tiết mục Bébête Show, tức Show Súc-vật, cho bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống đương nhiệm đang tại chức làm hình nộm đội lốt thú và nói năng lố bịch. Trong 13 năm liền, Show Súc-vật được dân chúng Pháp ưa thích, bình bầu hài kịch chính trị hay nhất.
Trong lĩnh vực tiểu thuyết Christophe Bataille chỉ là một tác giả trẻ, sau chuyến du lịch Việt Nam đầu tiên đã dám hư cấu ngay tức khắc câu chuyện Hoàng tử Cảnh với Giám mục Bá Ða Lộc (tên cúng cơm Pigneau de Béhaine) và hư cấu luôn cả vua chúa của chính đất nước anh. Năm 1993, Christophe Bataille đoạt Giải thưởng Tiểu thuyết Ðầu tay (Prix du Premier Roman) rồi giải thưởng Prix des Deux Magots 1994 cho cùng tiểu thuyết An-Nam [9] xây dựng hoàn toàn không dựa trên sự thật và tôi vô tình có truyện ngắn đăng chung với anh trên tập san Le Serpent à Plumes (Bút Rắn) [10] hai năm sau đó. Nhưng hãy quay trở về với giáo sư Nguyễn Văn Trung và những cấm kỵ Phong kiến.
Dân tộc Việt cho đến ngày Hoàng tử Tây học Nguyễn Vĩnh Thụy trên chuyến tàu về nước yêu say đắm thiếu nữ công giáo Henriette Nguyễn Thị Lan mà sắc đẹp vẫn chưa phai mờ hãy còn phảng phất trên những tấm ảnh đen trắng cũ xưa, dường như chưa ai biết mặt mũi vua chúa của mình. Trước đó, ai biết chân dung thật của Nguyễn Huệ? Mỗi khi kiệu Rồng ngự đạo, thần dân quỳ rạp mình đầu chấm đất. Hội họa An Nam (cho đến khi trường Mỹ thuật Ðông Dương ra đời) cũng không mấy phát triển, ngoài tranh dân gian làng Sình ngoài Huế, không thấy chân dung truyền thần. Ngày nay ai biết mặt Tổng đốc Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương? chưa nói đến Trần Thủ Ðộ, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trịnh Khải, Mặc Ðăng Dung… Ðồ đạc bày biện trong nhà bài trí ra sao, tổ tiên ăn mặc thế nào, sau 4000 năm văn hiến, dân tộc cũng không biết nốt. Khác xa Trung Hoa và Nhật Bản, chỉ cần xem phim Chưởng-Samourai của họ, thấy rõ đạo diễn Trung-Nhật không lúng túng chút nào khi trang trí Hồng Lâu Mộng, Shogun, Tần Thủy Hoàng, thoải mái thuê thợ đo may quần áo cách đây nhiều ngàn năm cho Chương Tử Di, Củng Lợi, Trương Mạn Ngọc, v.v.. Ðạo diễn Việt, ngược lại, không đủ sức dựng một cuốn phim như vậy thời Lý, nếu không vay mượn bằng cách “cầm nhầm” trang trí nội thất, y phục cổ Trung Hoa [11]. Chưa nói đến cách người Pháp nhìn vua Tự Ðức rất khác dân Việt, trong tranh, cũng như trong sử. Tuy thế, trong mỗi người Việt, vẫn có một hình ảnh về ông vua của mình tạo dựng bằng trí tưởng, qua kinh nghiệm, kiến thức, học vấn… Chính hình ảnh đó mới là hình ảnh thật, cho dù không đúng với hình ảnh của vị thiên tử quyền uy bao thế kỷ trước. Ðiều đó cũng đúng như hình ảnh kinh thành Ba Lê, Hán Thành, Mạc Tư Khoa hay Cựu Kim Sơn, Bá Linh, Nhã Ðiển trong đầu những du khách chưa bao giờ bước chân ra khỏi nhà. Hình ảnh có thể thay đổi theo năm tháng nhưng luôn luôn thật trong trí não, cho đến khi cá nhân đó đặt chân đến Hán Thành, hay kém may mắn xuống mồ.
Vua Tự Đức – NGUỒN MULEORATIONS.COM
Ở đây, sự thật cá nhân vượt lên trên sự thật tập thể và chức năng chính yếu của nhà văn nằm trong công việc khai quật sự thật cá nhân này. Ðiều mà văn học chính quy hay văn học tập thể không chấp nhận.
Nhưng vì sao sự thật tập thể lại xuống giá đến vậy? Tựa giá khách sạn Á châu trước và sau dịch phổi cấp tính Hồng-Kông? Vì tập thể là một đám đông ba phải, gió cuốn chiều nào xoay theo chiều ấy. Dân tộc Việt đã kiểm chứng biết bao lần, tung hô Nguyễn Huệ vào Phú Xuân, Gia định, Bắc Hà rồi lại tung hô Nguyễn Ánh vào Gia Ðịnh, Phú Xuân, Bắc Hà… lượt đi lượt về không biết bao nhiêu bận. Giá trị tập thể, mặt khác, trong văn học không phải là một giá trị. Có thể kiểm nghiệm tức khắc qua tổng tập hồi ký của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, con hùm xám của tổng bộ Việt Minh, “Anh hùng dân tộc” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vị tướng của sình lầy như Tây phương kính nể, nhưng 4 tập hồi ký [12] đã không đem đến thêm một chứng liệu lịch sử nào, thậm chí không một dòng phân tích quân sự. Ðọc xong, chỉ có thể ngán, với tất cả dụng ý tuyên truyền cho các nghị quyết Ðảng, ở mỗi trận đánh, công thức “Ta đã giải phóng bao nhiêu thôn, ấp, làng, diệt bao nhiêu lính Ngụy-Lê Dương, hạ bao nhiêu máy bay, xe tăng địch, đạt chỉ tiêu của Quân ủy Trung ương…” lặp đi lặp lại đến mệt mỏi. Tôi đã chờ đợi câu trả lời vì sao Vĩnh Yên, Mao Trạch, Mạo Khê, Ninh Bình, Gia Hội, Nghĩa Lộ, Nà Sản? Những trận đánh sống mái và cực kỳ quan trọng quyết định kéo dài thêm hay thu ngắn chiến tranh Ðông Dương. Nhưng không một lời giải thích. Võ Nguyên Giáp không hề cho biết vì sao ông chọn tấn công Vĩnh Yên trong chiến dịch Trung-Du ‘‘Trần Hưng Ðạo’’ thay vì có thể tiến đánh Hà Nội từ hướng Lạng Sơn-Ðình Lập hoặc những thành phố cửa ngõ khác? Võ Nguyên Giáp cũng lướt qua nguyên nhân chính đưa đến thất bại của 2 sư đoàn 308 của Vương Thừa Vũ và 312 của Lê Trọng Tấn, đã không chiếm ngay Vĩnh Yên đêm 14 tháng Giêng 1950 sau khi Vanuxem và Liên đoàn 3 Lưu động bị thiệt hại trầm trọng ở Bảo Chúc. De Lattre Tổng chỉ huy, Salan Phó tổng chỉ huy, De Linarès Tư lệnh Bắc Phần và Edon, Rodon, Vanuxem, Galibert, các Tư lệnh chiến trường về sau đều công nhận nếu chiếm Vĩnh Yên ngay đêm đó, Võ Nguyên Giáp đã mở tung cánh cửa Hà Nội không còn gì chống giữ. Ðêm đó, De Lattre chưa kịp lập cầu không vận chuyển quân từ Sàigòn ra Hà Nội, các liên đoàn lưu động của De Castrie, Edon và Clément cũng chưa đến. Võ Nguyên Giáp đã đánh mất cơ hội thực hiện lời hứa của Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Việt Minh: “vào ăn Tết thủ đô cùng đồng bào.” Sau đó các trung đoàn 88, 36, 209 bị đánh bom Napalm tan tác khúc Quật Lưu, nhưng không thấy ghi thiệt hại. Tương tự, thất bại Mao Trạch, Mạo Khê, Ðông Triều, Sông Ðáy, thảm bại trước con nhím Nà Sản, hay bất ngờ của chiến dịch biệt kích Hirondelle ở Lạng Sơn, v.v.. được phớt qua nhẹ nhàng và không rõ rệt. Ðọc xong tổng tập hồi ký, người đọc không biết bộ đội chủ lực Việt Minh đã thiệt hại bao nhiêu chết, bị thương, mất tích và nghĩ quân đoàn viễn chinh Pháp quân số phải đông gấp 6, 7 lần thực tế. Những ai sống ở Pháp, đối chiếu với tài liệu Tây, các sách phân tích quân sự đều ngỡ ngàng, Pháp bại trận công bố thiệt hại, Việt Minh chiến thắng che giấu. Vì sao chiến thắng liên tiếp như vậy, quét sạch đồn bót Tây hết trận này sang trận khác mà phải mất đến 9 năm chiến thắng?
Tinh thần yêu nước quá nồng nàn, tình yêu tổ quốc là yêu Chủ nghĩa Xã hội quá thiêng liêng, khiến Võ Nguyên Giáp đã vượt quá sự thật của thống kê, kiểm toán của lịch sử. Tất cả, chính vì ông tường thuật theo yêu cầu của một tập thể có điều kiện. Các hồi ký của đại tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, thượng tướng Nguyễn Hữu An, Hoàng Cầm, Ðặng Vũ Hiệp, trung tướng Ðồng Sĩ Nguyên cũng không khác, đều nằm trong khuôn mẫu hồi ký Le Domptage des Tigres (Thuật Chăn Hổ) của thống chế Nga-Sô Joukov, tư lệnh đệ nhất mặt trận Bắc Ukraine hay Tchouikov, Samsonov, Koniev, Jeremenko trong chiến tranh Nga-Ðức.
Sơ sài trên mặt quân sự so với các đồng nghiệp Ðức-Quốc-Xã Guderian, Rommel, Manstein, không tầm vóc chính trị của hồi ức De Gaulle, cũng không giá trị nhân chứng của hồi ức Churchill, Võ Nguyên Giáp chiến thắng Ðiện Biên Phủ nhưng thất bại khi ghi lại Ðiểm hẹn Lịch sử của Những Năm tháng Không thể nào Quên.
Hồi ký, một thể loại văn học đòi hỏi sự thật tuyệt đối, của các tướng lĩnh như thế ít khả tín. Như vậy, vì sao đòi hỏi tiểu thuyết, một bộ môn không mang tính khoa học chính xác sự khả tín lịch sử? Sẽ sai lầm khi đánh đồng tiểu thuyết với sử ký. Ở Võ Nguyên Giáp, sự thật tập thể kém trung thực so với sự thật cá nhân trong hồi ký của những sĩ quan cấp úy vô danh như Trương Duy Hy, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong hoặc Phan Nhật Nam dưới dạng bút ký. Bạn đọc sẽ hỏi: Nhưng sự thật cá nhân một khi được tập thể chấp nhận sẽ trở thành sự thật tập thể? Không đúng. Sự thật trong Tháng Ba Gẫy Súng của Cao Xuân Huy nếu được đông đảo độc giả ngoài nước chấp nhận, vẫn là một sự thật tập thể khởi đi từ sự thật cá nhân của riêng Cao Xuân Huy. Trường hợp này đúng cho tất cả mọi bộ môn nghệ thuật, vẫn đúng như tháp Eiffel tại Paris, vẫn chỉ là cây cầu sắt Paul Doumer (cầu Long Biên) bắc qua sông Hồng mà Auguste Eiffel đã thử nghiệm ở Hà Nội trước khi dựng thẳng đứng lên ở quảng trường Trocadéro bây giờ. Dân tộc Pháp hôm nay hãnh diện vì tháp Eiffel mặc dù đã chê bai thậm tệ khi vừa xây cất. Cũng giống Nguyễn Huy Thiệp, những ngày đầu Vàng Lửa, Kiếm Sắc, Phẩm Tiết, Không Có Vua đã bị công kích, tấn công dữ dội, nhưng đến ngày nay, mười ba năm sau Tướng Về Hưu, cả nước ôm lấy ông làm vật gia bảo so sánh với văn chương thế giới.
Vua Tự Đức – NGUỒN BELLEINDOCHINE.FREE.FR
Thế giới? Jorge Luis Borgès đã chiến đấu ròng rã suốt 30 năm tìm một chỗ đứng giữa lòng tập thể Á Căn Ðình cho một sự thật hoang tưởng của “cái chết đồng nghĩa bất tử” và “tận cùng khởi đầu vô tận”. Thập niên 20 khi khởi nghiệp văn, Borgès sớm bị đồng nghiệp rẻ rúng. Enrique Anderson Imbert, bình luận văn học cho tuần san cánh tả La Vanguardia đã nghi ngờ tài năng và trách cứ Borgès quay lưng trước thực tế đói kém của xã hội. Ramón Doll, lý thuyết gia cực hữu chửi mắng tác phẩm của Borgès mang mùi xú khí hôi thối. Tạp san Mégafono phải tổ chức tranh luận về giá trị Borgès. Imbert sẽ trở thành một giáo sư đại học tiếng tăm ở Hoa Kỳ và Doll, sẽ tham chánh. Thập niên 50, Á-Căn-Ðình chịu chi phối bởi hai luồng tư tưởng Marx và Hiện sinh, khắc tinh của thể loại siêu hư cấu, đưa đến những phản ứng gay gắt của quần chúng và đàn áp của chính quyền Péron. Nếu tính từ thi tập đầu tay Fervor de Buenos Aires (Sự Hăng hái của Thủ đô) xuất bản 1923, cho đến La Nueva Generación (Thế Hệ Mới), cuốn sách vinh danh Borgès đầu tiên do Adolfo Prieto biên khảo vào năm 1954, phải mất 3 thập niên nhà văn mới được công nhận chánh thức trên chính quê hương của ông. Tập thể công chúng đã nhận định sai khi Borgès vừa xuất hiện.
Trong thực tiễn sáng tác tiếng Việt, có lần, nhà văn Mai Ninh băn khoăn khi viết Mưa Mùa Xa, muốn miêu tả trận tắm mưa thuở nhỏ, nhưng do dự vì chưa hề tắm truồng bao giờ và vì Ký là thể loại đòi hỏi sự thật. Sau cùng Mai Ninh quyết định mô tả cảnh mình tắm truồng trên sân thượng, vì một lý do duy nhất: trận mưa đó, ào ạt xối xả ký ức trần truồng thời bé, tuy không hề xảy ra trong thực tế nhưng đã ám ảnh Mai Ninh thành một ước mơ kéo dài nhiều mươi năm mỗi khi những trận mưa réo về qua mái ngói, cho đến tận bây giờ, vẫn còn khắc khoải ham muốn một lần tắm truồng trong đời. Tác giả đã trở về, đã tắm mưa trong Ký. Cơn mưa tắm rửa thân xác trút đi vết tích những ngày lưu lạc, cơn mưa của cô bé khát khao nhìn trận mưa bay ngoài hiên và tiếng nói cười ròn rã của chúng bạn ồn ĩ. Mai Ninh tắm trong Ký trận mưa mình thèm khát, cho đến khi những giọt nước hắt từ hè đường ngoại ô An Phú Ðông nhắc nhủ đang trên quê hương xa lạ, trước vỉa hè văn hoá quá khác biệt… Chính đây mới là sự thật, một sự thật tiểu thuyết không phải của tắm mưa, nhưng của khát vọng trần truồng và sợ hãi trần truồng đã hiện hữu, đã có thật, vẫn ở đó, vĩnh viễn. Một sự thật của Một con người.
Trong Hình học Không gian, đường cong khi cắt ra làm trăm triệu đoạn nhỏ, mỗi đoạn sẽ là một đường thẳng, và trên đường thẳng đó các giá trị không ứng nghiệm trên những mặt phẳng khác, sẽ có nghiệm số ở mặt phẳng tí teo này. Ðịnh lý toán học trên cũng có thể hỗ trợ cho các nhà văn đem nhân vật lịch sử ra cắt làm trăm triệu khúc và khảo sát phần nhỏ nhất. Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh như thế bắt buộc phải biến dạng, như Jésus đã biến dạng trong tiểu thuyết The Last Temptation of Christ của Nikos Kazantzakis [13], khi đến phút chót cuộc đời đấng Kitô trên thập giá vẫn nhớ quay quắt Madeleine, cô gái điếm bị ném đá đã đi theo bao ngày. Ðấng Cứu Thế bỗng hoài nghi “chọn lựa Thập Tự” của chính mình, tại sao đã không yêu Madeleine và sống cuộc đời bình dị của một con người trong yêu thương của một con người? Jésus de Nazareth trước lúc trút hơi thở cuối cùng đã nghĩ đến những ân ái cháy bỏng đã hơn một lần mơ ước. Madeleine, Người Yêu Của Ðấng Trời, như đề tựa tiểu thuyết sau cùng của Nguyễn Thị Hoàng, không là quỷ dữ cám dỗ, nhưng là một người đàn bà do chính Thiên Chúa tạo ra, biết sống, biết khổ đau, biết nhục nhã và biết yêu một người đàn ông. Jésus de Bethléem, qua đôi mắt Kazantzakis, là một người đàn ông, bắt buộc phải mang trên thân tất cả bản năng con người để hiểu và cứu chuộc con người. Khác với diễn dịch chính thống trong phim truyện của Franco Ziffirelli (version chánh thức được Vatican cho phép), Jésus trong The Last Temptation không sắm vai tiên tri nhưng trình diện như một nạn nhân của định mệnh, ngay cả Judas không phản bội, nhưng yêu thương che chở Jésus hết mực và Marie-Madeleine là người duy nhất hiểu đấng Christ. Kazantzakis đã đảo ngược cách tiếp nhận kinh thánh quen thuộc.
Thế giới đã luôn có cấm kỵ và vượt cấm kỵ, đã lôi con thượng đế ra đóng đinh và chặt đầu vua giữa chợ, rồi lại đóng đinh những kẻ khi quân, phạm thánh. So với thế giới, những vượt thoát đi tìm sự thật con người của nhà văn Việt hôm nay vô cùng nhẹ nhàng, chưa có gì quá đáng, nhưng sẽ không bình thường nếu chỉ có tùng xẻo mà không có vượt thoát.
Vấn đề chính nằm ở nghiệm thu công trình sau khi đã băm vằm lịch sử. Nhà văn, anh tìm thấy gì? Và có gì khác thường để trình bầy với nhân loại?
TV, Paris tháng 6-2003
[1] Nguyễn Văn Trung, tiểu luận Vấn Ðề Nhân Vật Lịch Sử: Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh và Những Cách Tiếp Cận, tạp chí Văn Học số 200 tháng 12.2002
[2]Gió Lửa của Nam Dao, Mùa Mưa Gai Sắc của Trần Vũ, Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác, Phẩm Tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Tâm Sự Gia Long của Trần Nghi Hoàng, Gia Long Tẩu Quốc của Tân Dân Tử, Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn Mạnh Côn, Mơ Thành Người Quang Trung của Duyên Anh
[3] Thụy Khuê phê bình Trường Hợp Trần Vũ và Sử Thạch Nguyễn Huy Thiệp
[4] Nguyễn Gia Kiểng tham luận chính trị Tổ Quốc Ăn Năn, Cao Văn Luận hồi ký Bên Dòng Lịch Sử
[5] Trương Vĩnh Ký biên khảo sử ký Cours d’Histoire Annamite, Tạ Chí Ðại Trường Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam, nhóm Tân Ðịnh – Sử Ký Ðại Nam Việt Quốc Triều
[6] Tiểu luận văn học Gió Lửa Mô Hình Xã Hội Trong Tiểu Thuyết Lịch Sử của Phạm Trọng Luật, Tại Sao Phải Là Nguyển Huệ của Trương Vũ, Thời Ðiểm Của Câu Hỏi-Thời Ðiểm Của Con Người của Trần Ðạo (Phan Huy Ðường), tranh luận Vấn Ðề Của Chúng Ta của Lam Sơn
[7] Nguyễn Mạnh Trinh Ðọc Cái Chết Sau Quá Khứ của Trần Vũ, Văn Thanh Vài Suy Nghĩ Về Cuốn Sách Truyện Người Viết Sử
[8] Trương Vũ, Tại Sao Phải Là Nguyễn Huệ, Hợp Lưu 5-1992, đề nghị tương tự thay tên nhân vật lịch sử
[9] Christophe Bataille, Annam, Nxb Le Seuil 1993, có thể xem thêm tiểu thuyết Absinthe, Nxb Arléa 1994
[10] Le Serpent à Plumes, n° 27, Printemps 1995
[11]Một số biên khảo Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Ðình Hổ, Việt Nam Văn Hoá Sử Cương của Ðào Duy Anh, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Ðôn và đặc biệt Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú ghi chép kỹ lưỡng phong tục, nghi lễ, nghi thức, tế giao của triều đình và dân gian Việt Nam, trên lý thuyết cho phép tạo mẫu hàng mã hiện vật quá khứ. Nhưng trong thực tế, thiếu nghiên cứu, không phương tiện kỹ thuật, thiếu trách nhiệm và tâm huyết khiến khoảng cách giữa văn bản và hình ảnh vẫn tồn tại.
[12] Võ Nguyên Giáp, Những Năm tháng Không Thể Nào Quên, nxb Quân Ðội Nhân Dân 2001
Võ Nguyên Giáp, Chiến Ðấu Trong Vòng Vây, nxb Quân Ðội Nhân Dân 2001
Võ Nguyên Giáp, Ðường Tới Ðiện Biện Phủ, nxb Quân Ðội Nhân Dân 2001
Võ Nguyên Giáp, Ðiện Biên Phủ-Ðiểm Hẹn Lịch Sử, nxb Quân Ðội Nhân Dân 2001
[13] The Last Temptation of Christ, do đạo diễn Martin Scorsese thực hiện năm 1988, phỏng theo tiểu thuyết của Nikos Kazantzakis viết về cuộc đời của Jésus (Willem Dafoe), một thợ mộc sinh sống bằng nghề đóng thập tự gỗ bán cho quân La Mã dùng đóng đinh các tử tội. Một ngày Jésus gặp Judas (Harvey Keitel) rồi gái điếm Marie-Madeleine (Barbara Hershey) sẽ đi theo anh lên đồi Golgotha.