Tiểu sử tác giả do Cô Diệu Quyên, Chủ Tịch Ban Chấp Hành của Ban Đại Diện giới thiệu:
Trangđài Glassey-Trầnguyễn là một chuyên gia nghiên cứu về Cộng đồng người Việt hải ngoại, là học giả duy nhất trên thế giới đã thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn lịch sử truyền khẩu với người Việt ở cả bốn châu lục: Á, Âu, Úc, và Mỹ. Một tác giả song ngữ đoạt nhiều giải thưởng, Trangđài tiên phong ghi lại lịch sử của người Việt tại Quận Cam qua Dự án Vietnamese American Project từ thập niên 1990 bằng chính student loans của mình, và đoạt giải quán quân tại cuộc tranh tài nghiên cứu của CSU năm 2004 với bài viết “Quận Cam, Sử Vàng.” Cô là người Việt duy nhất được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cấp học bổng Fulbright toàn phần, bậc tối ưu, để nghiên cứu về người Việt tại Thụy Điển. Cô tốt nghiệp bốn cử nhân cùng lúc tại Cal State Fullerton, và đoạt giải thủ khoa trong hai ngành. Cô cũng tốt nghiệp cao học ngành Lịch Sử tại Đại học này, với hai giải thủ khoa toàn trường. Trangđài tốt nghiệp Cao học ngành Nhân chủng học tại Đại học Stanford, và hiện đang hoàn tất chương trình tiến sĩ. Cô là tác giả hơn một ngàn tác phẩm sáng tạo, bình luận, và chuyên đề về người Việt hải ngoại bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Cô là tác giả của năm tập thơ song ngữ, và có thơ được dịch qua mười ba ngôn ngữ khác. Trong hơn 21 năm qua, Trangđài vẫn luôn dấn thân trong lãnh vực giáo dục, nghệ thuật, phát huy ngôn ngữ và văn hoá Việt, và lãnh đạo thanh niên sinh viên. Cô bắt đầu dạy tiếng Việt tại Trường Việt Ngữ Cộng Đoàn Westminster ngay khi mới đến Mỹ, và hướng dẫn nhiều lớp tại các khoá tu nghiệp do các trường đại học tổ chức cho các Thầy Cô giảng dạy tại trường công lập, cũng như tại các khoá TNSP Việt ngữ. Trangđài giúp vận động cho các chương trình giáo dục song ngữ Anh-Việt trong dòng chính, và đã xuất bản hơn 50 sách tiếng Việt cho trình độ Mẫu Giáo và Lớp Một cũng như cố vấn cho các chương trình này.
Trangđài Glassey Trầnguyễn trong phần Hội Thảo Chủ Đề của Khoá Tu Nghiệp Sư Phạm thứ 27 vào ngày 14-16 Tháng Tám năm 2015
Xin trân trọng kính chào Quý Thầy Cô,
Tôi chân thành cám ơn Ban Tổ Chức đã cho tôi đóng góp vào đề tài “40 Năm Tiếng Việt Hải Ngoại” trong Khoá Tu Nghiệp Sư Phạm thứ 27 này, từ cái nhìn và kinh nghiệm của một người thuộc thế hệ trẻ hơn.
Theo sát chủ đề của Khoá, tôi xin đưa ra một số nhận định về sinh hoạt Việt ngữ và vai trò của tiếng Việt trong cộng đồng hải ngoại trên thế giới trong bốn thập niên qua, và những tiến triển mới nhất trong giáo dục dòng chính tại Hoa Kỳ. Những chia sẻ của tôi dựa trên: a. kinh nghiệm sống 19 năm ở Việt Nam và 21 năm ở Hoa Kỳ và Châu Âu; b. kinh nghiệm sáng tác bằng tiếng Việt và các nghiên cứu song ngữ về người Việt hải ngoại ở khắp nơi trên thế giới trong 21 năm qua; c. và kinh nghiệm giảng dạy Việt ngữ trong cộng đồng, tại trường đại học, và tại nhà. Do đó, những nhận xét này vừa mang tính học thuật, vừa đi sát vào kinh nghiệm của một người Việt đã từng sống tại Việt Nam, và đã gắn bó với công việc giảng dạy, sáng tác, và nghiên cứu bằng tiếng Việt trong hai thập niên qua tại hải ngoại.
Kính thưa Quý Thầy Cô,
Chủ đề của Khoá hướng chúng ta đến tiếng Việt hải ngoại, là ngôn ngữ được đại đa số người gốc Việt ở khắp nơi trên thế giới sử dụng từ 1975 cho đến nay. Phân biệt giữa tiếng Việt hải ngoại và tiếng Việt trong nước là một điều cần thiết, và là then chốt để tránh những ngộ nhận nhập nhằng giữa tiếng Việt hải ngoại và tiếng Việt trong nước hiện nay.
Sự phân biệt này rất cần thiết, và có ý nghĩa đặc biệt đối với thế hệ của chúng tôi, mà tôi gọi là ‘thế hệ bo bo,’ thế hệ của những người sinh sau 30 Tháng Tư 1975, phải lớn lên trong một nền ‘cải cách giáo dục,’ và phải học ‘tiếng Việt Chủ Nghĩa Xã Hội.’
Tháng 12 năm ngoái, trong chương trình hội thảo chủ đề “20 Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975” được tổ chức tại Little Saigon, tôi đã nhận định rằng, thế hệ hậu chiến chúng tôi mồ côi, vì cha thì đi cải tạo, mẹ thì đi kinh tế mới, văn học thì bị chôn sống, tiếng Việt thì bị ngộ độc. Nhưng sau bốn thập niên, chúng tôi đã đoàn tụ với cha mẹ, đã đòi lại di sản văn học mà chúng tôi bị tịch thu. Chúng tôi khước từ làm kẻ mồ côi trong gia đình chữ nghĩa của Việt Nam và của thế giới. [http://www.diendantheky.net/2014/12/trangai-glassey-tranguyen-40-nam-van.html]
Bản thân tôi đã được học lại tiếng mẹ đẻ ở tuổi 19 khi định cư tại Quận Cam, nơi mà tiếng Việt không bị bó rọ và nhồi sọ như trong nước. Vì vậy, tôi luôn mang tâm tình biết ơn đối với những thế hệ đi trước, đã gầy dựng lại vốn liếng văn hoá ngôn ngữ giữa những ngỡ ngàng ban đầu trên xứ người, và cho phép những thế hệ cháu con tìm lại được một quê hương thật sự trong chính tiếng Việt thân yêu.
Kính thưa Quý Thầy Cô,
Tại hải ngoại, chúng ta sử dụng một tiếng Việt rất khác với trong nước từ sau 1975, và tiếng Việt này gắn liền với lịch sử di dân tỵ nạn của người Việt trên toàn cầu. Hơn nữa, tiếng Việt này tuy xa xứ, nhưng lại gắn bó mật thiết với di sản văn hoá và lịch sử dân tộc trước 1954 ở miền Bắc và trước 1975 ở miền Nam. Do đó, tôi cho rằng tiếng Việt hải ngoại có tính nguyên thủy (authentic) hơn so với tiếng Việt được dùng tại Việt Nam hiện nay, vốn chịu nhiều ảnh hưởng của tiếng Hoa và Hồng quân Bắc Việt.
Ở năm 2015, Việt Nam đối diện với một nền giáo dục đã bị phá sản văn hoá, băng hoại ngôn ngữ, và nghèo đói tư duy. Thêm vào đó, tiếng Việt trong nước cũng gánh chịu tất cả những oan khiên mà dân tộc phải gánh chịu từ 40 năm qua ở miền Nam và 60 năm qua ở miền Bắc. Việc đi tìm và gìn giữ một tiếng Việt trong sáng, nguyên thủy, tinh túy là cần thiết, nhất là để giúp những thế hệ trẻ có được một di sản đúng đắn khi dự vào bàn tiệc văn hoá thế giới.
Trong bài nghiên cứu có tựa đề “Articulating Refug-endity” đăng trên báo Journal of Southeast Asian American Education and Advancement [xin đọc trọn bài ở đây: http://docs.lib.purdue.edu/jsaaea/vol10/iss1/5/] được xuất bản năm nay, tôi đã lập luận rằng, trong bốn mươi năm qua: tiếng Việt là nơi quy tụ của cộng đồng người Việt hải ngoại.
Người ta thường nghĩ về một nơi chốn khi nói đến điểm gặp gỡ. Nhưng tôi cho rằng, tiếng Việt mến yêu chính là không gian cụ thể nhất để chúng ta gặp gỡ nhau, liên đới với nhau, và xây dựng một cộng đồng hải ngoại. Chẳng hạn như Khóa Tu Nghiệp này – đã được tổ chức ở nhiều địa điểm tại Nam California trong 27 năm qua, nhưng điểm đến lúc nào cũng là tiếng Việt!
Trên bình diện cộng đồng, tiếng Việt không chỉ là một không gian chung, mà còn là điểm gặp duy nhất giúp tạo nên sự hợp nhất văn hoá. Bởi vì, người Việt hải ngoại thuộc mọi lãnh vực xã hội, mọi ngành nghề, mọi giới, mọi tôn giáo, đều sử dụng tiếng Việt và cùng muốn duy trì và phát triển tiếng Việt.
Thật vậy, tiếng Việt đi vào mọi mặt của đời sống, là mạch chính, chảy xuyên suốt qua mọi lãnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tâm linh, đến giáo dục trong bất cứ cộng đồng gốc Việt nào trên thế giới. Hơn nữa, tiếng Việt còn là mối dây liên kết người Việt hải ngoại trên toàn cầu với nhau. Tiếng Việt không chỉ là mạch chính trong từng cộng đồng địa phương, mà cũng là mạch chính chảy giữa những cộng đồng người Việt hải ngoại trên khắp năm châu, và giúp nối kết các cộng đồng này với nhau.
Do đó, tiếng Việt ở thế kỷ 21 và trong một thế giới Việt hải ngoại là căn tính văn hoá nổi trội nhất, vì tiếng Việt chứa đựng không chỉ văn hoá Việt, mà cả lịch sử Việt cận đại, nhất là lịch sử tỵ nạn và di dân của khối người Việt ở ngoài Việt Nam kể từ 1975.
Chính tiếng Việt cũng là công cụ giữ nước. Tại hải ngoại, giữ gìn tiếng Việt là căn cước của việc tu thân, là mẫu số chung cho tất cả những dấn thân cho một Việt Nam tốt đẹp hơn. Cố học giả Phạm Quỳnh đã nói, “Tiếng ta còn, nước ta còn.” Với những nguy cơ mất nước dồn dập như hiện nay, việc bảo tồn và phát huy một tiếng Việt trong sáng để giữ nước lại càng trở nên cần thiết.
Vì vậy, chúng ta thấy không có sinh hoạt nào tại hải ngoại lại mạnh mẽ, phổ quát, xuyên suốt, bền bỉ, và lan tỏa như phong trào giảng dạy Việt ngữ. Chính sức mạnh của phong trào Việt ngữ đã bồi thố cho những sinh hoạt khác tại hải ngoại, nhất là truyền thông báo chí, tôn giáo, sáng tác, giáo dục và thương mại. Ngày hôm nay, sức mạnh đó quy tụ chúng ta về Quận Cam, vốn là nơi luôn đi đầu trong việc giảng dạy Việt ngữ cộng đồng tại hải ngoại.
TGT