Nối giữa Đông Á cùng Đông Nam Á và dọc theo vịnh Bengal, Miến Điện – quốc gia cựu thuộc địa Anh tại Châu Á – đã trải qua không ít những thăng trầm lịch sử trong nhiều thế kỷ. Hơn hai ngàn cây số biên giới với Hoa Lục, Miến Điện cũng chẳng thể thoát khỏi giấc mộng Đại Hán bạo tàn hay trở thành miếng mồi thuộc địa của thực dân. Từ những cuộc chiến đấu chống lại gót giày quân Nguyên Mông xâm lược vào cuối thế kỷ thứ 13 sang những phong trào giành độc lập từ người Anh vào nửa đầu thế kỷ 20, cho đến hành trình đi tìm dân chủ ở đầu thế kỷ 21 với cuộc bầu cử lịch sử vừa qua, sinh lộ một quốc gia Phật Giáo với những đền chùa linh thiêng huyền bí như Miến Điện đã trở thành một niềm cảm hứng cho phong trào dân chủ thế giới về một quốc gia chẳng cam chịu yếu hèn để vượt lên trên định mệnh của dân tộc mình.
So sánh và nhìn lại những giai đoạn và biến cố lịch sử của một Miến Điện với khoảng 55 triệu dân hiện nay, xem ra đất nước cũng chẳng khác nhiều với chặng đường lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua cho đến giữa thế kỷ 20. Năm 1277, vó ngựa quân Nguyên từ Vân Nam do tướng Hốt Đô kéo sang tấn công Miến Điện sau khi triều đình phương Bắc nhiều lần buộc dân tộc này thần phục và cống nạp không được, nhưng quân xâm lược đã bị đánh cho tan tác ngay biên giới nước này. Sáu năm sau, năm 1283 Hốt Tất Liệt lại hung hãn cho quân xâm chiếm Miến Điện một lần nữa, dù thành công và cai trị đất nước này gần mười năm nhưng với tinh thần quật cường không khuất phục, những cuộc khởi nghĩa của người dân Miến Điện lại đánh đuổi được quân Nguyên Mông khỏi đất nước mình lần thứ hai. Năm 1301, lần thứ ba phương Bắc lại xua 12 vạn quân sang tấn công Miến Điện và cũng đành nuốt hận quay về sau khi bị thiệt hại nặng nề. Ba lần đại thắng quân Nguyên Mông, những trang sử hào hùng của Miến Điện nhắc nhở chúng ta về những trang sử hùng tráng của dân tộc Việt cũng ba lần đại thắng quân Nguyên ở cùng một thời kỳ lịch sử này, khi giặc phương Bắc nhắm đường chinh phạt về hướng Nam, đã tấn công Đại Việt và bị triều đình nhà Trần cùng danh tướng Hưng Đạo Vương đánh chẳng còn manh giáp.
Cùng thời kỳ Hưng Đạo Vương 3 lần đánh thắng quân Nguyên, Miến Điện cũng 2 lần đánh tan tác quân Hốt Tất Liệt – nguồn vi.wikipedia.org
Trải qua những triều đại khác nhau trong vài thế kỷ, dù có những tranh giành quyền lực mang tính sắc tộc và dăm cuộc chiến lớn nhỏ với các lân bang, Miến Điện trên căn bản vẫn giữ quyền tự trị của mình. Đến năm 1885, vương triều cuối cùng của Miến Điện bị sụp đổ sau các cuộc tấn công của quân Anh, đưa dân tộc này hoàn toàn nằm trong vòng cai trị của nước Anh hơn nửa thế kỷ. Hơn thế nữa, bị sát nhập thành một vùng của Ấn Độ thuộc về người Anh lúc bấy giờ, Miến Điện trở thành một lãnh thổ thuộc quyền chịu hai tròng thuộc địa, mà người dân Miến gọi là một “thuộc địa của thuộc địa”. So sánh cột mốc thời gian trong lịch sử thì ắt chẳng khác bao nhiêu với nước Việt, khi đây là giai đoạn Việt Nam hoàn toàn rơi vào tay người Pháp, bị phân chia ba miền và trở thành thuộc địa của Pháp sau Hòa Ước Patenotre vào năm 1884. Và nếu tinh thần dân tộc của người dân Miến Điện luôn quật khởi để chống lại ách cai trị của thực dân Anh qua những phong trào đấu tranh và khởi nghĩa bền bỉ từ cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 do các cao tăng và giới trí thức Miến Điện lãnh đạo thì phong trào chống Pháp, giành độc lập cho nước Nam cũng liên tục và quật cường không kém. Nếu Miến Điện có những cuộc khởi nghĩa của thiền sư Xaya Xan, phong trào Thakin yêu nước, phong trào giành độc lập của tướng Aung San thì tại Việt Nam có phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi vào năm 1885 cùng vô số những cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật… ban đầu, cho đến những phong trào đấu tranh của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đầu thế kỷ 20 tại Việt Nam. Cả hai dân tộc đã viết tiếp những trang sử liệt oanh cho dân tộc mình cho đến ngày cả hai dân tộc thoát khỏi vòng thuộc địa vào giữa thế kỷ 20. Nhưng cũng từ đây, con đường của hai dân tộc đã đi theo hai ngõ rẽ khác nhau, để hôm nay, người dân Miến Điện đang hò reo trước một bước ngoặt lịch sử đầy những hứa hẹn tươi sáng trong tương lai, qua kết quả cuộc bầu cử mà người dân đã thực sự được tự do bỏ phiếu cho vận mệnh dân tộc mình sau nhiều thập niên tranh đấu.
Aung San, cha của bà Aung San Suu Kyi – nguồn commons.wikimedia.org
Chính vì vậy, nhìn vào lộ trình dân chủ của Miến Điện để dẫn đến thành công hôm nay, có lẽ cũng cần nhìn kỹ hơn về chặng đường Miến Điện trải qua trong thế kỷ 20 và đầu 21 vừa qua. Trong những trang sử của mình, người dân Miến Điện vẫn không quên và luôn tôn thờ vị lãnh tụ dân tộc Aung San, tức cha của bà Aung San Suu Kyi hiện nay, là một người đã đóng góp to lớn vào việc đem lại độc lập cho Miến Điện. Sinh năm 1915, ở tuổi đôi mươi, Aung San đã nổi lên như một lãnh tụ sinh viên sáng giá trong các phong trào yêu nước. Năm 25 tuổi Aung San tham gia vào chính trường Miến Điện qua việc thành lập các đảng phái chính trị và quân đội, trở thành một vị tướng trẻ tài ba với các chủ trương chống lại Anh và chủ nghĩa thực dân, đem lại độc lập cho Miến Điện. Như Cường Để hay Phan Bội Châu của Việt Nam, Aung San thoạt đầu cũng bị thuyết phục và đi theo Nhật bởi học thuyết Đại Đông Á, cho rằng Châu Á phải thuộc về người Châu Á, là những quốc gia chung sống hòa bình và thịnh vượng, không bị thống trị bởi chủ nghĩa thực dân phương Tây. Nhưng ông cũng kịp nhận ra đó chẳng qua cũng là giấc mộng của một dân tộc Phù Tang “thượng đẳng” muốn làm bá chủ các dân tộc nhược tiểu Á Châu. Ông cũng bị quyến dụ từ chủ nghĩa cộng sản với chiêu bài giành độc lập và giải phóng dân tộc, nhưng kịp thời dừng lại khi nhận ra một chiêu bài nguy hiểm khác. Quay lại cùng phe đồng minh trong Đệ Nhị Thế Chiến để chống lại chủ nghĩa Phát-xít, với một tinh thần dân tộc vô biên cùng khả năng và uy tín của mình, ông thuyết phục được các sắc tộc Miến Điện ngồi lại với nhau để đòi hỏi và đàm phán với Anh về việc trao trả độc lập cho Miến Điện, tiến hành bầu cử để thành lập một chính phủ lâm thời có quyền tự trị. Cuộc tổng tuyển cử năm 1947 thành công, Aung San trở thành Thủ Tướng Miến Điện nhưng chỉ ba tháng sau đó đã bị phe đối lập ám sát. Aung San không có cơ hội chứng kiến ước nguyện của mình khi người Anh chính thức trao trả độc lập cho Miến Điện ngày 4 tháng 1 năm 1948, ngày lễ Độc Lập của Miến Điện. Nhà lãnh đạo trẻ tuổi tài ba kiệt xuất Aung San mất đi ở tuổi 32, nhưng đã truyền lại cho con gái là bà Aung San Suu Kyi chỉ hai tuổi lúc bấy giờ, một di sản lớn lao về tinh thần và ý chí dân tộc tự chủ mạnh mẽ.
Biến cố 8888 – nguồn politicaltheorybits.wordpress.com
Như đã nói trên, sự khác biệt rõ nét giữa Miến Điện và Việt Nam bắt đầu từ sau khi hai dân tộc trở thành những quốc gia độc lập. Nếu như Việt Nam từ sau 1945 đã từng bước rơi vào tay những người cộng sản mà hệ lụy là trở thành một thể chế cộng sản độc tài toàn trị như hiện nay, thì Miến Điện trở thành một quốc gia quân phiệt với những cuộc tương tàn và đàn áp không kém phần đẫm máu từ sau năm 1948. Năm 1964, bà Aung San Suu Kyi sang Anh du học và đến năm 1988, ở tuổi 43, khi trở về nước thăm mẹ và chứng kiến biến cố 8888, là cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền khi người dân tổ chức biểu tình vào ngày 8 tháng 8 năm 1988 (8888), bà đã quyết định ở lại nước để cùng người dân chống lại chính quyền quân phiệt, đem lại dân chủ cho Miến Điện. Tháng 9 năm 1988, bà tham gia việc thành lập đảng Liên Minh Dân Tộc cho Dân Chủ NLD với chủ trương đấu tranh bất bạo động, đi các nơi vận động và diễn thuyết phong trào tự do dân chủ cho Miến Điện, cũng như đối thoại và đòi chính quyền quân phiệt từ chức để tổ chức tổng tuyển cử tự do, cho thành lập một chính quyền Miến Điện dân sự có tự do dân chủ. Bị hăm dọa, đàn áp, bắt bớ, cấm không được tranh cử, bà Aung San Suu Kyi vẫn can đảm đeo đuổi con đường tranh đấu của mình. Năm 1989, bà bị chính quyền bắt và quản thúc tại gia. Hình ảnh người phụ nữ mảnh khảnh thường cài hoa lên mái tóc, hiên ngang đứng giữa những họng súng làm xúc động thế giới và gây niềm cảm hứng cho phong trào dân chủ khắp nơi. Ủy Ban Nobel đã trao giải Nobel Hòa Bình cho bà vào năm 1991 vì bà là “một biểu tượng quan trọng trong sự tranh đấu chống bạo quyền”, không chỉ riêng của Miến Điện mà cho cả những quốc gia đang còn hứng chịu những bạo quyền. Năm 2010, bà được trả tự do sau 15 năm bị giam giữ, trở lại chính trường và tiếp tục con đường hoạt động chính trị nhằm đem lại một giải pháp mới cho dân tộc Miến Điện đã nằm dưới chế độ quân phiệt trong vài thập niên qua, cũng đang bị Trung Cộng không ngừng ra sức tạo ảnh hưởng từ bấy lâu. Câu chuyện thời sự còn lại là một kết quả chiến thắng áp đảo của đảng đối lập NLD do bà lãnh đạo như vừa qua, đem lại cho người dân niềm hy vọng về một đất nước Miến Điện thái bình, dân chủ và phát triển.
Đàn áp đẫm máu 1988 – nguồn beautifulburmaus.blogspot.com
Xin chúc mừng xứ sở những ngôi chùa Vàng. Họng súng đã bị bẻ cong trước đóa hoa cài lên mái tóc và những đôi tay trần chỉ biết lạy Phật. Mong rằng từ đây chỉ còn những tiếng chuông chùa vang vọng để đón chào dòng người hành hương trên đất Phật thanh bình, thay cho đoàn người biểu tình trước họng súng và lưỡi lê như bấy lâu. Và nếu như những trang sử giữa Miến Điện và Việt Nam vẫn còn song hành cùng nhau, những hào kiệt nước Nam ắt sẽ mồi lên đốm lửa hào hùng và hy vọng này để tiếp tục hành trình tìm lại hào khí Diên Hồng và tinh thần Quang Trung mà cha ông để lại. Và để thắp sáng đường đi còn lắm gian truân của mình.
ĐYT