Menu Close

Mùa gà tây

Alice Ann Munro sinh ngày 10 tháng 7 năm 1931, là nhà văn nữ người Canada. Bà đã đoạt Giải Nobel Văn học năm 2013, Giải Man Booker quốc tế năm 2009 cho toàn bộ tác phẩm trọn đời, và đã 3 lần đoạt Giải của Toàn quyền Canada cho văn học hư cấu.

Tặng Joe Radford

Kỳ 1

Lúc mười bốn tuổi tôi được nhận vào làm việc ở Vựa Gà Tây cho mùa Giáng Sinh. Lúc đó tôi còn quá trẻ để có thể kiếm việc trong một cửa hàng hay làm nhân viên hầu bàn bán thời; tôi cũng còn quá nhút nhát.

Tôi là người mổ gà. Những công nhân khác cùng làm trong Vựa Gà Tây là Lily, Marjorie và Gladys, cũng là những người mổ gà; Irene và Henry, nhổ lông; Herb Abbott, người đốc công, chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ công việc và tham gia vào bất cứ chỗ nào thiếu người. Morgan Elliott là chủ nhân kiêm giám đốc. Ông ta và con trai, Morgy, làm công việc giết gà.

Tôi biết Morgy hồi còn đi học. Tôi nghĩ anh ta đần độn và đáng ghét, và tôi thấy khó chịu khi phải chấp nhận anh ta ở một vị thế mới và có vẻ cao cấp hơn tôi, vì anh ta là con trai của ông chủ. Nhưng ông chủ đối xử với anh ta thật thô lỗ, mắng và chửi anh ta, xem anh ta chẳng hơn gì một thằng làm công mạt hạng. Một người nữa cũng có liên quan với ông chủ là cô Gladys. Cô là em gái của ông chủ, và trong trường hợp của cô thì hình như có sự đối xử ưu ái. Cô làm việc chậm chạp và ra về nếu cảm thấy không khoẻ. Cô có vẻ không ưa Lily và Marjorie, tuy vậy, cô có chút thiện cảm với tôi. Cô về ở nhờ với Morgan và gia đình ông ta sau khi cô đã làm việc nhiều năm ở Toronto, trong một ngân hàng. Đây không phải là công việc quen thuộc của cô. Lily và Marjorie hay nói lén về cô khi cô không có ở đó, họ nói cô bị suy nhược thần kinh. Họ nói ông Morgan bắt cô làm việc trong Vựa Gà Tây để trả cho chi phí ở nhờ. Họ còn nói, mà không sợ họ đang tự mâu thuẫn, rằng cô làm công việc này vì đang theo đuổi một người đàn ông, và người đàn ông ấy là Herb Abbott.

mua ga tay

Thắm Nguyễn

Trong mấy đêm đầu tiên sau khi bắt đầu làm việc ở đó, tất cả những gì tôi thấy mỗi khi nhắm mắt lại là lũ gà tây. Tôi thấy chúng được treo lộn ngược, trụi lông và cứng đơ, tái và lạnh, đầu và cổ mềm nhũn, mắt và mũi vấy máu bầm; những cái lông còn sót lại – sậm đen và dính đầy máu – trông như một cái vương miện. Nhìn chúng, tôi không thấy ghê tởm, mà chỉ có cảm tưởng là công việc sẽ bận bịu vô tận.

Herb Abbott chỉ việc cho tôi. Em hãy đặt con gà lên bàn và chặt cổ nó bằng con dao phay. Sau đó em cầm miếng da lỏng ở cổ và kéo ngược lại cho lòi cái cuống diều nằm giữa cổ họng và khí quản.

“Sờ viên sỏi này xem,” Herb nói với vẻ khuyến khích. Anh bảo tôi dùng mấy ngón tay túm lấy cái diều. Rồi anh chỉ cho tôi cách luồn bàn tay vào sau cái diều và cắt nó ra, cả cổ họng và khí quản nữa. Anh dùng cái kéo lớn để cắt xương sống.

“Túm lấy, túm lấy”, anh nói nhẹ nhàng. “Bây giờ, thọc tay vào.”

Tôi làm theo. Bên trong con gà thì lạnh ngắt và tối tăm.

“Cẩn thận tránh những cái dằm xương”.

Mò mẫm trong khoảng tối tăm ấy, tôi phải kéo những cái màng nhầy dãn ra.

“Đứng dậy nào.” Herb lật con gà và gập từng cái chân. “Quỳ lên, Mẹ Nâu. Nào.” Anh lấy con dao lớn để ngay lên khuỷu chân con gà và cắt đứt cái ống chân.

“Nhìn mấy con giun này”.

Những sợi dây màu trắng ngà, được kéo ra từ ống chân con gà, đang uốn éo.

“Đó là những cái gân gà đang rút lại. Bây giờ đến phần thú vị!”

Anh xẻ phần hậu môn của con gà, một mùi hôi bay lên.

“Em có được học hành đàng hoàng không vậy?”

Tôi không biết nói sao.

“Mùi gì biết không?”

“Hydrogen sulfide.”

“Em có học,” Herb nói và thở dài. “Được rồi. Em dùng mấy ngón tay móc bộ lòng ra. Từ từ, từ từ. Giữ mấy ngón tay lại với nhau. Cuộn bàn tay lại. Dùng mu bàn tay chạm vào những cái xương sườn. Dùng lòng bàn tay nắm lấy mớ lòng. Có cảm thấy gì không? Tiếp tục đi. Giựt đứt những sợi dây – càng nhiều càng tốt. Tiếp tục đi. Rờ thấy cái cục cưng cứng không? Đó là mề gà. Rờ thấy cái cục mềm mềm không? Đó là trái tim. Thấy chưa? Rồi hả. Móc mấy ngón tay quanh cái mề gà. Từ từ thôi. Bắt đầu kéo về phía này. Đúng rồi. Đúng rồi. Bắt đầu kéo nó ra.”

Việc này không hề dễ chút nào. Tôi cũng không chắc rằng cái tôi nắm được là cái mề gà. Tay tôi đầy một đống lầy nhầy lạnh ngắt.

“Kéo đi,” anh nói, và tôi lôi ra một đống lầy nhầy óng ánh.

“Được rồi. Mớ xôm xốp này. Em biết nó là gì không? Là phổi. Còn đây là tim. Cái này là mề. Còn đó là mật. Này, em đừng bao giờ làm bể túi mật, không thì nó sẽ làm đắng hết cả con gà.” Rất khéo léo, anh moi ra hết những thứ tôi còn để sót, kể cả hai hòn dái, trông như hai quả nho màu trắng.

“Một đôi bông tai dễ thương,” Herb nói.

Herb Abbott là người đàn ông cao, chắc và đầy đặn. Tóc anh đen và mỏng, được chải thẳng từ đằng trước ra đằng sau, và mắt anh hơi xếch, vì vậy trông anh giống như một ông Tàu da tái mét hay giống như bức hình của Quỷ Sứ, ngoại trừ mặt anh không có râu ria và trông hiền lành. Bất cứ việc gì anh làm trong Vựa Gà Tây này — từ việc mổ gà, như việc anh đang làm bây giờ, đến việc chất hàng lên xe tải, hay treo những xác gà lên — đều được làm với những động tác thuần thục, gọn gàng, một cách nhanh nhẹn và khoan khoái. “Để ý Herb xem — anh ta đi cứ như đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi,” Marjorie nói, và quả như vậy. Herb đã từng làm đầu bếp theo mùa trên những chiếc du thuyền trên hồ. Rồi anh làm việc cho Morgan cho đến hết mùa Giáng Sinh. Thời gian còn lại, anh giúp việc cho một tiệm bi-da, làm bánh hamburgers, lau dọn, và ngăn chặn những cuộc đánh nhau trước khi chúng xảy ra. Đó cũng là nơi anh đang ở: anh có một phòng phía trên tiệm bi-da trên con đường chính.

Trong tất cả các công việc tại Vựa Gà Tây, dường như chỉ có Herb là người luôn nghĩ đến hiệu quả và uy tín của lò mổ; chính anh là người giữ mọi việc trong tầm kiểm soát. Nếu bạn thấy cách anh ta đứng trong sân nói chuyện với ông Morgan – một người đàn ông mập, lùn, mặt đỏ, và hay nạt nộ bất ngờ – thì chắc chắn bạn sẽ nghĩ Herb là ông chủ còn Morgan chỉ là người làm thuê. Nhưng thật ra không phải như vậy.

Nếu không có Herb chỉ việc cho tôi, thì chắc là tôi đã không học được cách mổ gà. Đôi tay tôi rất vụng về và tôi rất thường cảm thấy xấu hổ về điều đó, nên nếu người hướng dẫn tỏ ra một chút cử chỉ mất kiên nhẫn thì cũng đủ khiến cho tôi run rẩy luống cuống. Tôi không thể chịu được khi có bất cứ ai đứng nhìn tôi làm, ngoại trừ Herb. Cụ thể hơn, tôi không thể chịu được nếu Lily và Marjore, hai chị em ở tuổi trung niên, nhìn tôi mổ gà. Họ làm việc rất nhanh, thành thạo và hay ganh đua. Họ vừa làm vừa hát vừa trò chuyện thô lỗ và thân mật với những cái xác gà tây.

“Đừng có khoèo tôi chứ, cái thằng già bạo dâm!”

“Đúng là cái lỗ đít già!”

Tôi chưa bao giờ nghe phụ nữ nói chuyện kiểu này.

Gladys không phải là một người mổ gà nhanh nhẹn, nhưng cô rất thành thạo; nếu không thì chắc hẳn là Herb đã chỉ việc cho cô. Cô không bao giờ hát và không bao giờ chửi thề. Tôi nghĩ cô khá lớn tuổi, mặc dù cô trẻ hơn Lily và Marjorie; chắc là cô đã ngoài ba mươi. Cô có vẻ như bị xúc phạm bởi mọi thứ đang xảy ra, và cố giữ những lời phê phán chua chát trong lòng. Tôi chưa bao giờ thử nói chuyện với cô, nhưng một ngày kia cô bắt chuyện với tôi trong căn phòng vệ sinh lạnh lẽo và chật hẹp bên cạnh lán mổ gà. Lúc đó cô đang trét đồ trang điểm lên mặt mình. Phấn trang điểm rất chỏi với màu da của cô, trông như cô đang đắp sơn màu cam lên một bức tường trắng gồ ghề.

Cô hỏi có phải tóc tôi quăn tự nhiên.

Tôi nói là phải.

“Chứ không phải tóc uốn hả?”

“Không.”

“Em may mắn thiệt đó. Chị thì đêm nào cũng phải cuốn ống lô. Hóa tính tự nhiên trong cơ thể chị không cho phép chị uốn tóc quăn.”

Phụ nữ có nhiều cách nói khác nhau về diện mạo bên ngoài của họ. Một số người nói toẹt ra rằng họ làm đẹp vì nhu cầu tình dục, làm đẹp cho đàn ông. Một số người khác, như Gladys chẳng hạn, lại ăn mặc bình thường như làm công việc quản gia, đây là loại người tự hào về những điều khó khăn của mình. Gladys rất duyên dáng. Tôi có thể hình dung cô làm việc ở ngân hàng, trong chiếc áo đầm màu xanh dương với cái cổ áo màu trắng loại mà bạn có thể tháo rời ra và đem giặt vào ban đêm. Chắc hẳn là cô cũng hay than phiền và bắt bẻ.

Một lần khác, cô nói với tôi về chuyện kinh nguyệt của cô, nó ra nhiều và làm cô đau bụng. Cô muốn biết về kinh nguyệt của tôi. Có một vẻ khó chịu, nghiêm nghị và lo âu trên mặt cô. May thay Irene nói vọng ra từ buồng cầu và cứu tôi ra khỏi tình huống khó xử này. “Làm như tôi nè, rồi cô sẽ không bị những thứ rắc rối ấy nữa, ít ra cũng được một thời gian.” Irene chỉ lớn hơn tôi vài tuổi, nhưng cô ta vừa lập gia đình sau khi có bầu, và đang ở vào những tháng cuối của thai kỳ.

Gladys làm như không nghe thấy, vẫn tiếp tục hứng hai bàn tay dưới vòi nước lạnh. Tay của mọi người ở đây đều đỏ và tấy vì làm việc nhiều. “Chị không thể xài xà-bông này được. Nếu chị dùng nó, thì sẽ bị ngứa,” Gladys nói. “Nếu chị mang xà-bông của chị vô đây, thì chị không thích người khác xài, bởi vì nó mắc lắm – đó là loại xà-bông chống dị ứng.”

Tôi nghĩ cái ý tưởng mà Lily và Marjore nêu ra – rằng Gladys mê Herb Habbott – chẳng qua là vì họ tin rằng những kẻ độc thân thì nên bị chọc ghẹo và làm cho xấu hổ bất cứ lúc nào, và chính họ cũng thích Herb, khiến họ có cảm giác rằng chắc chắn có ai đó đang theo đuổi anh ấy. Họ thắc mắc về anh ấy. Cái mà họ thắc mắc là: Tại sao một người đàn ông như anh ấy lại không muốn gì cả? Không vợ, không gia đình, không nhà cửa. Những chi tiết về cuộc sống hàng ngày của anh ấy, những sở thích nho nhỏ của anh ấy, đều được quan tâm. Anh ấy lớn lên ở đâu? (Nơi này, nơi kia, hay bất cứ nơi nào.) Anh ấy học đến lớp mấy? (Cũng vừa đủ trình độ học vấn.) Bạn gái anh ấy ở đâu? (Không bao giờ nhắc đến.) Nếu phải chọn giữa trà và cà-phê, anh ấy chọn thứ nào? (Cà-phê.)

Khi họ nói Gladys đang theo đuổi anh ấy, họ rất muốn nói về chuyện tình dục – anh ấy muốn gì và anh ấy có những chiêu gì. Chắc chắn họ cảm thấy một sự tò mò đầy khêu gợi về anh ấy, mà tôi cũng vậy. Anh ấy khơi dậy cảm giác tò mò vì anh ấy rất cẩn trọng và không bao giờ đùa giỡn giống như những người đàn ông khác quanh đây, đồng thời anh ấy cũng không quá khó tính hay quá lịch sự. Một vài gã đàn ông, khi chìa cặp dái gà tây cho tôi xem, thì chắc là vì họ nghĩ rằng những hòn dái sẽ là một trò đùa tục tĩu đối với tôi, khiến một đứa con gái như tôi sẽ cảm thấy mắc cỡ; một loại đàn ông khác thì lại cảm thấy xấu hổ về chuyện này và nghĩ là họ phải bảo vệ tôi để tôi khỏi bị trêu chọc. Người đàn ông nào không thuộc vào một trong hai loại này thì hình như là không bình thường – có lẽ đối với các phụ nữ lớn tuổi, cũng như đối với tôi. Nhưng một điều gì đó đối với tôi là chuyện bình thường, thì cũng có thể làm cho những phụ nữ khác khó chịu. Họ muốn gây sốc cho anh ấy. Họ muốn cả Gladys cũng gây sốc cho anh ấy, nếu có thể.

Thời đó – ít ra là ở Logan, Ontario, vào cuối những năm bốn mươi – chẳng ai có ý tưởng rằng đồng tính luyến ái đang lan ra khỏi những nơi kín đáo riêng tư. Chắc hẳn phụ nữ thời đó tin rằng đồng tính luyến ái là hiện tượng hiếm hoi và có những giới hạn nhất định. Trong thị trấn có vài người đồng tính luyến ái, và mọi người đều biết đó là những ai: đó là anh chàng nhã nhặn, có giọng nói nhẹ nhàng và mái tóc xoăn, làm nghề dán giấy tường và tự cho mình là nhà trang trí nội thất; đó là anh chàng mập mạp và được cưng chiều – con một của bà quả phụ của ngài bộ trưởng – anh ta đã dám tham gia vào các cuộc thi làm bánh của phụ nữ và đã tự tay đan móc một tấm khăn trải bàn; đó là một người đàn ông mắc bệnh tưởng, hành nghề nhạc sĩ phong cầm trong nhà thờ và dạy âm nhạc, luôn giữ trật tự cho dàn đồng ca và học trò của mình bằng cách la hét quát tháo. Một khi cái nhãn đã được dán xong như vậy, thì người ta có nhiều cảm thông hơn cho những người đồng tính luyến ái, và những tài nghệ về trang trí, đan móc, và chơi nhạc của họ được mọi người hưởng ứng – đặc biệt là phụ nữ. “Tội nghiệp cho anh ta,” họ nói. “Anh ta vô hại.” Họ – nhất là đám phụ nữ – thật sự tin rằng chính cái sở thích làm bánh và chơi nhạc là yếu tố quyết định, và đó là những công việc biến người đàn ông thành đồng tính luyến ái – chứ không phải những công việc khác mà anh ta làm hay muốn được làm. Cái khát vọng chơi vĩ cầm được người ta xem là tác nhân làm cho người đàn ông đánh mất nam tính, chứ không phải đó chỉ là một thứ đam mê nhằm tránh sự cám dỗ của đàn bà. Thật vậy, người ta có cái ý tưởng rằng bất cứ người đàn ông chân chính nào cũng muốn tránh sự cám dỗ của đàn bà, nhưng hầu hết đều mất cảnh giác, và đành chịu thua luôn.

Tôi không muốn đi sâu vào vấn đề Herb có phải là người đồng tính luyến ái hay không, bởi vì cái định nghĩa ấy hoàn toàn vô ích đối với tôi. Tôi nghĩ có thể anh ấy là người đồng tính luyến ái, nhưng cũng có thể không phải vậy. (Ngay cả khi xem xét lại những chuyện đã xảy ra sau này, tôi cũng nghĩ như vậy). Anh ấy không phải là câu đố quá hóc búa để giải đáp.

Một thợ nhổ lông khác, cùng làm việc với Irene, là cụ Henry Streets, một người hàng xóm của chúng tôi. Chẳng có gì đáng nói về cụ ngoại trừ cụ đã tám mươi sáu tuổi mà vẫn “làm việc như quỷ”, như cách cụ tự nói về mình. Cụ hay đổ rượu whisky vào trong cái bình thủy, và suốt cả ngày cứ thỉnh thoảng lại uống. Chính cụ Henry đã nói với tôi, khi chúng tôi đang ở trong bếp tại nhà, “Cháu nên kiếm một việc làm ở Vựa Gà Tây. Ở đó họ đang cần một thợ mổ gà.” Ngay lập tức ba tôi nói, “Không phải nó, Henry. Nó chỉ có mười ngón tay cái thôi,” và cụ Henry nói là cụ chỉ nói giỡn thôi – vì đó là công việc dơ dáy. Nhưng tôi đã quyết là sẽ làm thử công việc này – tôi rất muốn thành công trong một công việc như thế. Tôi ở trong tình trạng giống như một người trưởng thành cảm thấy xấu hổ rằng mình chưa bao giờ học đọc, còn tôi thấy mình vụng về trong các công việc tay chân. Đối với những người mà tôi biết, thì công việc của họ là những điều mà tôi không làm nổi, và người ta xem công việc là điều để họ tự hào về bản thân và dùng nó để đánh giá người khác. (Khỏi cần nói là những điều tôi làm rất tốt, như những bài tập ở trường, thì lại bị người ta nghi ngại hoặc bị khinh thường.) Bởi vậy thật là một sự ngạc nhiên và một sự khải thắng khi tôi không bị đuổi việc, mà còn có thể mổ gà tây với một tốc độ không đến nỗi quá tệ. Tôi không biết rằng mình có thật sự hiểu là Herb Abbott chịu trách nhiệm chừng nào về việc này, nhưng anh ấy hay nói, “Em làm tốt lắm”, hoặc vỗ vào hông của tôi và nói “Em đang trở thành một người mổ gà giỏi – em sẽ tiến rất xa,” và khi tôi cảm thấy cái chạm nhanh và dịu dàng xuyên qua cái áo ấm dày và cái áo khoác dính đầy máu mà tôi đang mặc, tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên và muốn tựa vào anh khi anh đang đứng phía sau tôi. Tôi muốn tựa đầu mình vào bờ vai rộng và chắc nịch của anh. Buổi tối khi ngủ, tôi nằm nghiêng, cạ má của mình vào gối và tưởng tượng rằng đó là bờ vai của Herb.

Tôi tò mò muốn biết cách Herb nói chuyện với Gladys, cách anh nhìn cô ấy hay lưu ý đến cô ấy. Sự tò mò này không phải là sự ghen tuông. Tôi nghĩ tôi muốn có chuyện gì đó xảy ra giữa họ. Tôi run rẩy trong sự mong đợi hiếu kỳ, cũng như Lily và Marjorie vậy. Tất cả chúng tôi đều muốn thấy dấu hiệu gợi tình từ anh ấy, nghe nó trong giọng nói của anh ấy, không phải vì chúng tôi nghĩ nó sẽ làm anh ta giống như những người đàn ông khác, mà bởi vì chúng tôi biết với anh ấy nó sẽ hoàn toàn khác. Anh ấy tử tế và kiên nhẫn hơn hầu hết phụ nữ, đồng thời cũng nghiêm khắc và lãnh đạm, giống như bất cứ người đàn ông khác. Chúng tôi muốn biết làm cách nào để có thể gây cảm xúc nơi anh ấy.

Không biết có phải Gladys cũng muốn điều này hay không, nhưng cô ta không tỏ ra bất cứ dấu hiệu gì. Tôi không thể nào biết, đối với những người đàn bà như cô ấy, phải chăng họ đần độn và nguy hiểm như vẻ bề ngoài của họ, chẳng cần điều gì khác ngoài những cơ hội để gây hấn và chê bai người khác, hay phải chăng họ đều bị ngộp thở với những ngọn lửa âm thầm và những khát khao vô vọng.

Marjorie và Lily nói về hôn nhân. Họ không có điều gì tốt đẹp để nói về nó cả, ngoại trừ họ có cảm tưởng rằng đó là một trạng huống mà không ai được phép tránh né. Marjorie nói rằng chỉ một thời gian ngắn sau khi lập gia đình, cô ta đã vào căn chòi gỗ và định uống thuốc chuột.

“Lẽ ra tôi đã uống rồi”, cô ta nói. “Nhưng người đàn ông lái xe bán dạo đồ tạp hoá lại vừa tới nhà và tôi phải chạy ra mua các thứ. Chuyện này xảy ra khi tôi còn sống ở nông trại.”

Chồng cô ta đối xử rất tàn nhẫn với cô ta trong những ngày ấy, nhưng sau đó ông ta bị tai nạn – ông ta bị xe máy cày cán qua người và bị nặng đến độ sau đó ông ta mất khả năng lao động suốt đời. Họ chuyển đến thị trấn, và bây giờ Marjorie trở thành người trụ cột của gia đình.

“Một tối nọ hắn bắt đầu càm ràm và nói rằng hắn không muốn ăn tối. Thế là tôi cầm cổ tay hắn và giơ nó lên. Hắn sợ tôi sẽ vặn tay hắn. Hắn thấy rằng tôi sẽ làm điều đó. Tôi hỏi ‘Anh nói cái gì?’ Hắn liền nói, ‘Tôi sẽ ăn.’”

Họ nói về cha họ. Ông thuộc thế hệ cũ. Ông có một cái thòng lọng trong căn chòi gỗ (không phải cái chòi nơi Marjorie định uống thuốc chuột – cái chòi này cũ hơn và ở một nông trại khác), và mỗi khi họ làm  ông điên tiết, ông bắt họ xếp thành hàng và dọa sẽ treo cổ họ lên. Lily, cô em, đã sợ run lẩy bẩy cho đến khi khuỵu xuống. Cũng người cha này đã sắp xếp cho Marjorie lấy người bạn nối khố của ông khi cô ta mới mười sáu tuổi. Đó chính là người chồng đã khiến cô ta muốn uống thuốc chuột. Người cha đã bắt Marjorie phải lấy chồng vì ông không muốn cô ta dính vào những chuyện rắc rối.

“Ông ta rất nóng máu,” Lily nói.

Tôi cảm thấy ghê sợ, và hỏi, “Tại sao các chị không bỏ trốn?”

“Lời nói của ông ta là luật lệ,” Marjorie nói.

Họ nói rằng đó là vấn đề đối với lũ trẻ bây giờ – nghĩa là bây giờ lũ trẻ quyết định mọi việc. Lời nói của người cha cần phải được tuân theo. Họ đã dạy con rất nghiêm khắc, và chưa đứa nào trở nên hư hỏng. Khi con trai của Marjorie đái dầm, cô ta dọa sẽ cắt chim thằng nhỏ với con dao mổ lợn. Thế là thằng nhỏ hết đái dầm.

Họ nói chín mươi phần trăm bọn con gái bây giờ uống rượu, và chửi thề, và vừa nằm vừa uống vừa chửi. Họ không có con gái, nhưng nếu họ bắt gặp chúng làm những chuyện này, họ sẽ đánh cho một trận nhừ tử. Họ kể rằng cô Irene thường đi xem khúc côn cầu với chiếc quần trượt tuyết có đường xẻ ở đáy quần và không mặc quần lót, để cho tiện việc đái xuống tuyết sau đó. Khủng khiếp.

Tôi muốn nêu ra một vài điều nghịch lý. Chính Marjorie và Lily cũng uống rượu và chửi thề, và có gì quá tuyệt vời về sự cả quyết của một người cha đã làm cho con mình chịu đựng cả một cuộc đời đau khổ? (Tôi chưa bao giờ thấy Marjorie và Lily vui vẻ với nhau – điều này không thể có, bởi vì cái cảm nghĩ của họ về hậu quả, bởi vì thái độ kiêu hãnh và lối sống của họ.) Tôi có thể nổi giận vì sự thiếu lô-gíc trong cách nói chuyện của hầu hết những người lớn – cách họ tuyên bố mà không cần biết là có bằng chứng hay không. Làm sao mà những đôi tay của những người đàn bà này lại thật tài tình, tinh vi và khéo léo đến thế – bởi tôi biết họ rất giỏi trong những việc khác cũng như trong việc mổ gà; họ rất giỏi may chăn, vá quần áo, vẽ, dán giấy tường, nhào bột và gieo hạt – nhưng cách nghĩ của họ thì thật cẩu thả, vụng về, và dễ gây phẫn nộ như vậy nhỉ?

Lily nói cô ta sẽ không để chồng cô ta đến gần mình khi ông ấy uống rượu. Marjorie nói từ cái lần chết hụt vì bị băng huyết, cô ấy không bao giờ để chồng mình đến gần, chấm hết. Lily nói khi ông ta đang uống rượu ông ta có thể làm bất cứ điều gì. Tôi có thể thấy đó là vấn đề sĩ diện khi không để chồng mình đến gần, nhưng tôi không chắc lắm rằng “đến gần” phải chăng có nghĩa là “làm tình”. Cái ý tưởng mà Marjorie và Lily đang tìm kiếm cho những mục đích như thế thì có vẻ hơi kỳ lạ. Răng của họ xấu tệ, bụng thì chảy xệ, khuôn mặt thì chán phèo và đầy tàn nhang. Tôi quyết định nên hiểu “đến gần” theo đúng nghĩa của nó.

 – Bản dịch của Trần Minh Hương từ nguyên tác “The Turkey Season”, trong Alice Munro, Selected Stories (New York: Vintage Books, 1991) 289-311.

 (Còn 1 kỳ)