Menu Close

Hiệp hội Tương tế Bắc Việt Nghĩa trang (Ký) – Kỳ 5

– Lương, lên thang lấy cho chú đây coi hũ cốt Việt kiều con.

Sư bác mập mạp phốp pháp, nhận ra tôi một năm trước. Chỉ mới một năm mà chùa Vĩnh Nghiêm thay đổi, trai phòng các sư dọc hành lang có máy lạnh hai cục, màn ảnh vi tính truy cập internet. Tôi ngỡ ngàng nhìn qua cửa các thầy đang lên mạng. Không khí ngày Tết huyên náo, những sắc áo chen chúc với lồng chim phóng sinh phước thiện, khách thập phương lên xuống vào ra chánh điện, mùi nhang trầm theo gió phả phất từng chập dọc kinh Nhiêu Lộc. Tôi tìm lại không khí chùa ngày mới lớn theo Thầy lên tháp. Những mặt người chồng chất lên nhau. Gia đình tôi không có ai trong tháp, nhưng Thầy vẫn có thói quen vào thắp một nén nhang. Ngần ấy năm và bây giờ quá nửa dòng họ đã bị đuổi ra khỏi nghĩa trang phải cải táng di dời lên tháp.

– A, bữa hổm anh có về mà.

Chú Lương mau mắn chào. Chú Lương mảnh khảnh nhanh nhẹn, hoạt bát, thoắt nói, thoắt cười.

– Kiếm cho anh ấy chỗ tốt lắm, ở từng hai trông xuống bàn thờ Phật nhưng không cách chi gom về chỗ gia đình. Anh thông cảm bây giờ chết nhiều quá, dân số mỗi năm gấp đôi gấp ba năm trước, lại thêm cốt Việt kiều gởi về ai cũng muốn gần Phật mà Phật chỉ có một, Việt kiều thì đông.

– Sao kêu cốt Việt kiều? Chết rồi mà.

– Dạ thói quen thôi anh, nhưng cốt Việt kiều gia đình thường ân cần hơn.

Chú Lương xách đèn bấm, lên thang. Chú đi thoăn thoắt, thành thạo mỗi nấc thang cuốn ốc, vừa kể lai lịch gốc gác từng cốt vào tháp lúc nào, thâm niên bao lâu, con cái thành đạt ra sao. Tôi nhìn lưng áo nhật bình của chú là thẳng, lấm tấm mồ hôi dợn sóng. Làm sao chú tỳ kheo có thể biết hết ngần ấy chuyện? Từ những cốt con đàn cháu đống đến quá khứ tung tích, tên tuổi từng thân quyến, cả những vụ đánh ghen cốt ngay tại tháp? Làm như chú đã ăn ngủ trong tháp, thì thầm chuyện trò với từng cốt. Ðời tư ai khổ sở, tâm sự cốt nào tự tử, cốt nào linh, cốt nào hiu hắt không bao giờ có người thăm viếng, hay cốt nào ưa cục cựa là có người đến cúng.

– Có nhiều chuyện hay lắm anh a, như cụ Thân này vào năm 81 đến 86 thì hết người thăm, chùa lâu lâu nhắc xin chút công đức gia đình không trả lời, đến bữa hôm có Việt kiều dẫn cả họ vào cúng đốt mấy xe vàng mã sau đó tự nhiên tháng nào gia đình cũng vào lễ bái. Cô Thu đây tự tử chi sao đó, mà mỗi lúc chồng vào thăm cứ bắt đem lên lầu ba không cho để chung với thân nhân, chị này thì khác, lúc chết có chửa, vô cốt rồi cả năm sau nhà gái đến bắt khui ra chia xương về thờ riêng. Anh trai này sinh 67 nhập tháp ba hôm mới hay khai sinh giả, chừng bây giờ cũng không biết tên tuổi là gì, thầy chưa vô sổ bộ.

Chú Lương đem hũ cốt xuống. Tôi nhìn gương mặt K trên nắp. Hũ cốt do đích thân tôi mua ở Pompes Funèbres Convention bằng đồng còn sáng. Tôi lấy giẻ lau gương mặt K như tôi đã lau trong bệnh viện. K mang gương mặt mệt mỏi ở Phi Luật Tân buổi chiều hai anh em đói lả. Hải trình 21 ngày, 13 ngày tàu chìm ngâm nước giữa biển, 113 người chết đuối. Tôi lê lết khắp các ngõ ngách bản làng Phi xin ăn. Hải đảo Liminancong quá nhỏ mấy chuyến giang đỉnh PCF của hải quân Phi không đủ sức nuôi 285 thuyền nhân, chỉ phát ba thìa cháo mỗi ngày trong lúc chờ đợi Cao ủy Liên hiệp quốc đến nhận hàng. Tôi theo đám ma đói tỵ nạn gõ cửa từng túp lều. Chắp chắp là ăn cơm, pù tăng ki na mô là ÐM mày. Tôi chỉ biết hai chữ đó, không nhớ ai dạy. Chắp chắp khi cửa mở, pù tăng ki na mô khi người đàn bà Phi tóc quăn, địu con quấn xà rông đóng sầm cửa. Tôi lùng sục khắp các hẻm rừng, K kiệt sức nằm thiêm thiếp dưới gốc cây đợi. Tay chân tôi mưng mủ những vết cắt của san hô, da dẻ tôi nhăn nheo như các bà lão quắt queo, tôi mang cơn sốt bừng bừng của 13 ngày đứng biển, mặt đất tròng trành như trôi trên sóng. Tôi lấy vạt áo học sinh còn đính phù hiệu trường Lê Thị Hồng Gấm mừng quýnh đựng cơm ông lão chài lưới bốc cho. Miệng tôi ngậm miếng cá khô, hai tay tôi bụm áo chạy về gốc cây K đang đợi. Tôi mừng quýnh muốn kêu Anh ơi, có cơm rồi, tôi mừng quýnh quên gan bàn chân rách nát vết cắt đá ngầm, tôi mừng quýnh vấp ngã sấp mặt, miếng khô cá lăn lông lốc. Thằng A Hủi đi chung tàu lao đến giật, tôi giằng nhưng A Hủi xỉ mặt:

– Lụ Mẹ! Buông ra tao dộng một cái bể mặt.

Tôi buông miếng cá, hốt cơm rơi vãi trên đất, hứng trong áo những nắm cơm lẫn đất cát mang về cho K vẫn thiêm thiếp. Tôi nguyền rủa người Tàu, tôi đã chứng kiến họ ăn ở bẩn thỉu ở Mỹ Tho trước lúc xuống bến, ích kỷ giành giật trên thuyền. Tôi đã chứng kiến A Hủi rút dao chém A Dềnh giành ba lượng vàng những ngày ngâm nước ở san hô. Tôi nghĩ Thầy không thể là người Tàu, tôi không bao giờ là người Tàu. Hai anh em không biết nói tiếng Tàu.

– Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Ðứa trẻ chìa tay. Tôi đang đứng trước Quốc Hội cũ, cố mường tượng ra tượng Thủy Quân Lục Chiến đối diện passage Eden đã bị đập.

– Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Rõ ràng đứa trẻ mang gương mặt tôi ở Phi Luật Tân. Rõ ràng đứa trẻ đang chìa tay nói Chắp Chắp. Ðứa trẻ đang kéo oằn anh nó nằm co quắp quấn bông băng thuốc đỏ mắt lờ đờ trên miệng ván có đóng bốn bánh xe đi dọc đường Ðồng Khởi. Ðứa trẻ nhếch nhác y tôi ở hải đảo Liminancong đi kiếm cơm cho anh nó. Nếu tôi không cho tiền chắc chắn nó cũng sẽ nói pù tăng ki na mô. 16 năm rồi mà tuổi trẻ của đất nước này vẫn còn đi xin ăn? 16 năm xây dựng con người mới, xã hội mới, làm chủ tập thể, vẫn còn xin ăn? Ở đâu các Bà mẹ Tổ Quốc? Ở đâu Hội phụ nữ Việt Nam? Ở đâu Thành Ðoàn? Tôi đã biết cái nhục bị người Phi xua đuổi, tôi đã biết cái nhục ăn khoai thí trong cô nhi viện Pháp. Bây giờ em biết cái nhục đi xin ăn như tôi ngày xưa? Xin ăn Nhật kiều, Hàn kiều, Úc kiều, Mỹ kiều, Pháp kiều và tôi là ai đứng đây, trước lòng bàn tay em đang chìa ra chờ đợi? 5 phút trước tôi còn là đứa trẻ Sàigòn, 5 phút sau tôi đã là Việt kiều em đợi bố thí, 5 phút trước tôi là người Hoa, 5 phút sau tôi là người Việt, 5 phút trước tôi là người Bắc, 5 phút sau tôi là người Nam, 5 phút trước tôi còn trắc ẩn mủi lòng vì cảnh đất nước cố gắng vươn lên, vượt thoát số kiếp nghiệt ngã, 5 phút sau tôi khám phá dân tộc mình ăn vặt và không bao giờ sử dụng thùng rác. Tâm linh tôi thay đổi, tâm thức tôi hoán chuyển, tâm hồn tôi biến thiên, linh hồn tôi dao động như quả bông vụ những đứa trẻ đang chơi ném ra đường xoay tít trong công trường Lam Sơn.

– Vậy Vũ là Vũ đóng giả Vũ?

K nhìn tôi bằng đôi mắt trừng trừng thú vật của thần chết. Tại sao thần chết tinh đến như vậy? biết hết giả dối của kiếp người, lúc sống, cũng như lúc chết? Có phải vì đã chung chạ quá nhiều với người sống mà hắn biết tất cả? Tôi là ai? Năm phút nữa tôi sẽ thành Tây biến mất ở phi trường Tân Sơn Nhất.

– Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Ðứa trẻ chìa tay, đôi mắt đục mờ, còn chút nào kiêu hãnh giận dữ của Trần Quốc Toản trong đôi mắt đó? Còn chút sức vóc nào ở bàn tay Phù Ðổng này?

Tôi bước chân qua cánh cổng bằng sắt sơn xanh. Cánh cổng nặng trĩu thép im lìm nặng nề suốt quãng trời thơ ấu. Sư huynh Emmanuel Oai hay đứng sau chiếc cổng này kiểm soát phù hiệu, áo bỏ trong quần, quần tây đen, sandale hay bata trắng, bata xanh sẽ bị đuổi cổ tức khắc. Sư huynh Athanase Mạng đứng dưới gốc cây, đôi mắt rình rập nghiêm khắc, một chút thiếu giáo dục sẽ bị trừng trị. Tôi đã đi không biết bao nhiêu lần lối sỏi giữa các tượng thánh. Ngôi trường nam sinh lớn nhất Ðông Nam Á, với mười một ngàn học sinh của hai xuất sáng chiều, mỗi cấp tiểu học 20 lớp, mỗi cấp trung học 12 lớp và mỗi lớp 73 học sinh. Tôi tên Vũ luôn đứng số thứ tự 72 trước thằng Hoàng Xuân Yến. Lasan Taberd thành lập năm 1873 cùng năm Francis Garnier đánh thành Hà Nội. Hiếm ai biết trường Taberd đỡ đầu sư đoàn Nhảy Dù, đơn vị tinh nhuệ nhất của quân lực miền Nam. Tôi đã khám phá những người lính Cộng Hòa không xa lạ gác cầu, gác chợ, nhưng thân mật dạy cách đánh tay khi diễn hành qua khán đài ngày lễ 100 năm thành lập trường. Tôi đã đứng ở đây, trong sân trường này, tập hát quốc ca, khám phá lá cờ thiêng liêng tổ quốc. Màu vàng phất phới đẹp như một dải cát, cuồn cuộn không tỳ vết, không nếp rũ, trong gió ban mai của tuổi hoa niên bay thẳng tắp một định hướng. Các em là tương lai rường cột của đất nước, sư huynh hiệu trưởng Lê Văn Nghiêm đã nói như vậy, tôn huynh tổng quyền dòng La San Charles Henry đã đọc diễn văn như vậy. Và tôi đã tin, tôi là tương lai của đất nước.

K luôn xếp hàng ở phía hội trường đâu lưng đường Gia Long. Tôi học đệ thất, anh đã học đệ tam. Giữa tôi và K luôn có một khoảng cách, chung trường, chung giáo dục, chung gia đình, nhưng anh luôn chọn con đường khác, con đường không thuần Việt. K sợ hãi chiến tranh từ lúc nhỏ, K năn nỉ Thầy cho đi du học sau Tú Tài toàn phần trong lúc tôi chuẩn bị tham chiến. Phan Nhật Nam đã nhồi vào đầu tôi hình ảnh kiêu hùng của người lính Cộng Hòa ở An Lộc. Dương Nghiễm Mậu đã nhồi vào đầu tôi những hình ảnh khổ đau của nạn nhân chiến cuộc với trận đánh chống chiến xa Bắc Việt T-54 ở miền Trung. Ðại úy Trương Duy Hy viết hồi ký Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Hạ Lào quá oai hùng. Thiết giáp Bắc quân PT-76 tràn lên sườn đồi, pháo 155 ly hạ thấp nòng bắn trực xạ thổi tung từng khối sắt trong lúc Thiếu tá Mạnh tiểu đoàn phó tiểu đoàn 2 Dù dẫn lính bung ra phản công chỉ đánh bằng lựu đạn. Ðồi Charlie, cơn mưa sắt thép, rặng Chu Moong Ray chờ trời sáng, tiểu đoàn 11 Dù qua đêm trong chập chờn sắc buốt. Phan Nhật Nam viết chi những giòng này, đài truyền hình chiếu chi những hình ảnh Mậu Thân từng cụ bà đi bốc xác con bị chôn sống ở bãi Dâu ngoài Huế? Tôi chuẩn bị tham chiến. Tôi chờ đợi cuộc chiến thiếu kiên nhẫn. Xả thân, bảo vệ tổ quốc, hiến thân dưới cờ, chống đỡ quốc gia đang nguy biến. Các em là người tổ quốc mong cho mai sau. Tôn huynh giám tỉnh phụ quyền Bruno Trần Văn Bằng khẳng định như vậy. Ðây thiếu sinh trường Lasan, vui sống trên đường đời, lòng ta nhất quyết nên người, theo gương sáng bao bậc đàn anh… Tôi là sản phẩm của nền đệ nhị Cộng Hòa, thứ sản phẩm thuộc lòng Lasan hành khúc, quốc ca, khẩu hiệu và tiểu thuyết.

– Anh làm gì ở đây?

– Tôi học ở đây.

– Lớp mấy? Ôn thi bên kia kìa.

Thanh niên chi bộ đoàn đang giăng biểu ngữ có kẻ khẩu hiệu Sông có thể cạn, núi có thể mòn… hất hàm. Tôi mang gương mặt đứa trẻ nên anh nghĩ tôi vẫn còn đi học? Tôi không rõ, nhưng tôi biết, anh là sản phẩm của một nền Cộng Hòa Xã Hội khác.

– Chụ, chụ cho con tiền ăn cơm chụ.

Ðứa trẻ chìa tay, đôi mắt đỏ kè, tôi nhìn kỹ vào trong đôi mắt đó cố tìm chút hy vọng ngày mai. Ðã có ai nói với đứa trẻ ăn xin: Em là tương lai của đất nước?

Tôi bước chân lên các bậc thang gỗ. Tôi đã bước chân lên các nấc thang này bao nhiêu lần suốt tám năm theo học trường dòng này? Thớ gỗ đã không còn láng bóng, đen kịt, phát ra những âm thanh thời nhỏ, không phải âm thanh vui tươi nhưng thứ âm thanh sợ hãi mỗi khi sư huynh giám học Sébastien Huyến, sư huynh Albert Tiên, sư huynh Marcien Thiện rình rập ở trong bóng tối nhào ra tát lấy tát để vào mặt đứa học trò đã ngu dại nói chuyện trong lúc lên thang. Tại sao các sư huynh đánh đập tương lai của đất nước? Tôi không hiểu, nhưng các bạn tôi đã bị đánh những trận đòn thâm tím mình mẩy. Sư huynh Martial Trí ám danh Martel cổ lùn, có lối trừng phạt kỳ lạ, bắt nam sinh tụt quần lấy roi tết bằng dây điện tháo vỏ bọc cao su quất vào mông, sư huynh Fortuna Phong tổng linh hoạt ám danh Hủ Lô bắt hít đất lấy chân mang giày Tây đè lên lưng cho thêm nặng, sư huynh phó hiệu trưởng Jourdain Thiện cao trên thước tám luôn xoắn lỗ tai học trò nhấc cao quá đầu rồi thả rơi xuống đất đánh bịch như mít rụng.

Tôi ngồi ở bàn học tôi đã ngồi thời bé, cố tìm trên mặt bàn những hình khắc bằng compas thời nhỏ. Nền trời nhiệt đới xanh biếc. Sắc xanh đùa giỡn vài cụm mây trắng. Ngô Trọng Thắng, con trai Ðại tá Ngô Trọng Oánh đặc khu trưởng đặc khu Một, than:

– Ê lão Hải Quốc văn sắp Hồ Zếnh nữa rồi kìa mày.

– Hết ba con chó con mèo của Tô Hoài rồi đến con gà trống của Hồ Zếnh, kim văn gì chán thấy bà nội.

Lâm Ngươn Tuyến, cháu Ðề đốc Lâm Ngươn Tánh phun nước miếng.

Tôi cũng thấy chán, không hiểu tại sao thầy Hải không bình giảng Z-28 Bí Mật Hồng Kông, Bắc Kinh 72 Giờ Nghẹt Thở hay Kinh Nước Ðen của Nguyễn Thụy Long hấp dẫn hơn nhiều. Tôi nhìn qua cửa sổ, nền trời xanh đến lạ lùng. Bóng chiếc phi cơ đang bay nổi ửng trên mái bệnh viện Grall vẽ chữ thập đỏ. Tiếng nổ ầm khủng khiếp sau đó. Tiếng nổ chát chúa vỡ oàng làm vỡ kiếng hất cả đám ngã chúi. Sức gió muốn thổi bay mái trường, bảng đen tượng Chúa rơi xiêu vẹo. Tiếng nổ thứ nhì chói tai bật tung các cánh cửa, cả lớp nhốn nháo hỗn loạn, thầy Hải bỏ chạy khiến cả lớp ùn ra như ong vỡ. Cả đám xô lấn chen giẫm chạy xuống thang đã đặc nghịt học sinh của các lớp khác. Tiếng đại liên cao xạ lúc này bắn lên như mưa, như có ai đốt nhiều băng pháo đại cùng một lúc. Tôi hoảng sợ xanh tái, chiến tranh tôi chờ đợi, chuẩn bị đã đến. Các sư huynh cố gắng xếp chúng tôi dưới chân thang, còi hụ khắp nơi, xe quân cảnh chạy qua đường Nguyễn Du rầm rầm. Thầy xuất hiện lúc đó, Thầy lo âu lặng cứng đến đón tôi đang ngồi bó gối sợ hãi dưới gầm cầu thang. Tôi ngả- vào tay Thầy tìm che chở. Chiến tranh của Thầy đã thành chiến tranh của tôi. Nỗi lo sợ của Thầy đã thành nỗi lo sợ của tôi. Buổi sáng tháng 3 nền trời cũng xanh như bây giờ, vẫn những cụm mây trắng trôi bềnh bồng, tiếng lá me reo rụng đầy đất, vẫn lối đi này, cầu thang gỗ đó, nhưng Thầy không bao giờ còn đến đón tôi nữa. Tháng 3-75 khi đánh bom dinh Ðộc Lập, người phi công bội phản Nguyễn Thành Trung có biết ông đã phá nát một tuổi thơ? Tất cả vỡ tan từ lúc đó.

TV