Wislawa Szymborska sinh năm 1923, đoạt giải Nobel Văn Chương năm 1996. Bà đã xuất bản gần hai mươi tập thơ. Thơ Szymborska mang những ám ảnh siêu thực, đầy chất trí tuệ và sự tinh tế trong ngôn từ. Một trong những đề tài chính của bà là sự dị biệt, hay “cái khác” – sự bất tương tri giữa những điều kiện khác nhau, chủng loại khác nhau, chất liệu khác nhau. Bà thường nêu lên những câu hỏi sâu thẳm về ý nghĩa (hay vô nghĩa) của cõi sinh tồn (hay của cõi vô sinh), qua một lối viết tưởng như đơn giản, thậm chí có vẻ ngây thơ.
Ngoài giải Nobel Văn Chương, Wislawa Szymborska còn nhận được rất nhiều giải thưởng văn học quan trọng khác, chẳng hạn Giải Thưởng Goethe (1991) và Giải Thưởng Herder (1995). Hiện nay bà đang sống ở Kraków.
Tên khủng bố, hắn ta canh chừng
Bản dịch của Hoàng Ngọc Biên
Trái bom sẽ nổ trong tiệm rượu vào một giờ hai mươi.
Bây giờ chỉ mới một giờ mười sáu phút.
Một số người còn có thì giờ đi vào,
một số khác đi ra.
Tên khủng bố đã ở bên kia đường.
Khoảng cách ấy bảo đảm hắn không bị hiểm nguy
và toàn cảnh giống y như những tấm hình:
Một người phụ nữ khoác áo vàng, bà ta đi vào.
Một người đàn ông đeo kính râm, ông ta đi ra.
Những chú bé mặc jeans, chúng nói chuyện.
Mười sáu phút và bốn giây.
Cậu bé nhất, cậu ta may mắn, lên xe gắn máy,
còn cậu kia lớn hơn cậu ta đi vào.
Mười bảy phút và bốn mươi giây.
Một cô gái, cô ta đến gần, một dải băng màu xanh trên tóc.
Nhưng chiếc xe buýt kia đột nhiên che lấp cô gái.
Một giờ mười tám phút. Cô gái đã biến đâu mất.
Cô ta có ngốc đến nỗi bước vào, hay không ngốc đến thế.
Chúng ta sẽ thấy khi người ta khiêng những xác người ra.
Một giờ mười chín phút.
Không có ai khác có vẻ đang đi vào.
Ngược lại, có một người đàn ông mập bước ra.
Nhưng dường như tìm cái gì trong túi và
mười giây trước một giờ hai mươi
ông ta trở vào để tìm cặp bao tay thảm thương của mình.
Một giờ hai mươi phút.
Thời gian, nó kéo lê thê biết bao.
Chắc chắn, nó đến rồi đây.
Không, không hẳn thế.
Vâng, nó đến rồi.
Quả bom, nó nổ tung.
Ba chữ lạ lùng nhất
Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn
Ngay khi tôi nói Tương Lai,
âm tiết đầu tiên đã trôi vào quá khứ.
Ngay khi tôi nói Im Lặng,
tôi đánh vỡ nó.
Ngay khi tôi nói Hư Vô,
tôi tạo nên một-thứ-gì-đó; cái-có nẩy ra từ cái-không.
Những đứa con của thời đại này
Bản dịch của Diễm Châu
Chúng ta là những đứa con của thời đại này,
thời đại này là thời đại chính trị.
Hết mọi công chuyện ngày đêm
của anh/ chị, của hắn của chúng ta
đều là chuyện chính trị.
Dù anh/ chị có thích hay không
các yếu tố di truyền của anh/ chị vẫn có một tương lai chính trị
màu da của anh/ chị vẫn là màu chính trị
đôi mắt của anh/ chị có một kích thước chính trị.
Bất cứ điều gì anh/ chị nói đều có tiếng vang của nó
bất luận điều gì anh/ chị nín thinh
cũng vẫn là chính trị
Những bài thơ phi-chính trị cũng là chính trị nữa
trăng trên trời trông không giống trăng.
Hiện hữu hay không hiện hữu, ấy là vấn đề.
Vấn đề gì thế, hở cưng?
Vấn đề chính trị.
Anh/ chị cũng chả cần phải là người
để có được tầm quan trọng chính trị.
Chỉ cần là xăng dầu
cỏ khô cho thú vật ăn hoặc chất liệu có thể chế biến lại
hay một cái bàn hội nghị, mà hình dạng
có thể nằm trên danh sách những điều cần thảo luận hằng tháng trời.
Trong lúc đó người ta vẫn bỏ mạng
thú vật vẫn banh thây vì đói khát
nhà cửa vẫn cháy
đồng ruộng vẫn bỏ hoang
hệt như vào những thời đại xa lắc xa lơ
ít chính trị hơn.
1986
Những kẻ giết người
Bản dịch của Đinh Phương
Họ suy nghĩ suốt ngày:
giết thế nào, để mà giết
và giết bao nhiêu,
để mà giết cho nhiều.
Ngoài ra họ ăn ngon miệng những thức ăn của họ,
cầu nguyện, rửa chân, cung phụng chim trời ăn uống,
trò chuyện điện thoại và gãi nách cùng lúc,
mút máu những ngón tay của họ khi bị rách xước,
nếu họ là đàn bà thì họ [cũng] mua băng vệ sinh,
dụng cụ kẻ mắt và những nhành hoa,
ở tâm trạng vui tươi họ cười đùa với mọi người chốc lát
bới tìm nước hoa quả tươi trong tủ lạnh
hằng tối họ ngắm nhìn trăng sao,
đặt ống nghe tai với nhạc nho nhỏ
rồi chìm vào giấc ngủ đến khi trời chớm mở.
– Là thế nếu như lúc về đêm họ không cần thực hiện những điều họ nghĩ.
Việt Nam
Bản dịch của Lý Đợi
“Mụ kia, tên gì?” “Không biết.”
“Nhiêu tuổi? Ở đâu?” “Không biết.”
“Sao đào cái hầm kia?” “Không biết.”
“Nấp lâu chưa?” “Không biết.”
“Sao lại cắn ngón tay tao?” “Không biết.”
“Không biết bọn tao đâu muốn làm đau mày?” “Không biết.”
“Mày theo phe nào?” “Không biết.”
“Ðang chiến tranh, mày phải chọn đi.” “Không biết.”
“Làng mày có còn không?” “Không biết.”
“Mấy nhóc này là con mày hả?” “Phải.”
1967
Ghi chú của người dịch:
Bài thơ Việt Nam năm 1967 nói lên một sự thật rất tàn khốc: người đàn bà, biểu tượng của thân phận và nỗi đau chiến tranh [mọi thời đại] – đang trong lúc ác liệt, làng không còn ai – sẵn sàng chối bỏ hết mọi thứ, nhưng chỉ trừ những đứa trẻ, có thể không phải là con mình, nhưng lại là biểu tượng cho tương lai. Tác giả của bài thơ không xem quan trọng người đàn bà này là ai, thường dân hay Việt Cộng; chỉ muốn nói một điều là khi chiến tranh xảy ra, bất cứ ai cũng có thể bị đưa đến đường cùng, kiểu như lấy khẩu cung ở đây. Bài thơ là một cuộc lấy khẩu cung; nó không chỉ nói được tính cách của người đàn bà Việt Nam, mà còn nói được tính cách của cuộc chiến tranh Việt Nam. Đứng ở cửa giữa, như một người quan sát, không cảm tính hay tuyên truyền, tác giả thể hiện được trình độ vi tế và bao quát của mình. Một bài thơ hay, buồn, và trần trụi về chiến tranh.