Menu Close

Mùa gà tây (Kỳ 2)

Kỳ 2

Hai tuần trước Giáng Sinh là thời gian bận rộn nhất ở Vựa Gà Tây. Tôi phải vào lò mổ một tiếng đồng hồ trước khi đến trường và một tiếng đồng hồ sau giờ học và nguyên cả hai ngày cuối tuần. Buổi sáng khi tôi đi bộ đến lò mổ, đèn đường còn sáng và sao mai vẫn còn lấp lánh. Vựa Gà Tây ở ngay bên cạnh một cánh đồng tuyết trắng, với một hàng thông cao đằng sau, và luôn luôn, dù lạnh và vắng vẻ đến mấy, hàng thông vẫn vươn cao những cành cây, thở dài và rỏ nước. Dường như khó có thể tưởng tượng rằng trên đường tới Vựa Gà Tây, cho một giờ làm việc vào buổi sáng, tôi đã trải qua một cảm giác về sự hứa hẹn và đồng thời một cảm giác về sự bí mật hoàn hảo, bất khả tư nghị của vũ trụ, nhưng tôi đã trải qua như thế. Herb có điều gì đó liên quan đến cảm giác này, và cả cái lạnh nữa — một chuỗi những buổi sáng băng giá và trong trẻo. Sự thật là, những cảm giác như thế không phải là khó có. Tôi có được những cảm giác đó nhưng không biết làm sao kết nối chúng với bất cứ điều gì trong cuộc sống thật.

Một sáng kia, Vựa Gà Tây có thêm một người mổ gà mới. Đó là một kẻ lạ mặt, khoảng mười tám hay mười chín tuổi, tên Brian. Hình như hắn có họ hàng hay bạn bè gì đó với Herb Abbott. Hắn đang ở chung nhà với Herb. Hắn đã làm việc trên những chiếc du thuyền trên hồ vào mùa hè trước. Hắn nói hắn đã chán ngấy công việc đó, và hắn từ bỏ.

Nguyên văn hắn nói là “Đụ mẹ, mấy cái thuyền đó, tao chán lắm rồi.”

mua ga tay

Thắm Nguyễn

Ngôn ngữ được dùng trong Vựa Gà Tây thì xuề xòa và tự do, nhưng riêng chữ chửi thề này thì chưa bao giờ nghe ở đó. Và Brian sử dụng nó hình như không phải vì bất cẩn mà với vẻ phô trương, có cả sự xúc phạm và khiêu khích. Có lẽ cái thái độ của hắn đã tạo ra ấn tượng đó. Hắn khá đẹp trai: tóc vuốt keo, mắt xanh, da mặt hồng hào, cơ thể cân đối — loại đẹp trai mà ai mới nhìn cũng đều đồng ý. Nhưng một ý tưởng ấu trĩ và dai dẳng đã bám vào hắn và hắn đã để cho tất cả vốn liếng bản thân của hắn biến thành trò bắt chước. Cái miệng hắn trông ướt át và hầu như lúc nào cũng mở hé, cặp mắt hắn khép hờ, hắn diễn tả bản thân bằng một cái liếc mắt đầy hy vọng, và cử chỉ của hắn thì lười lĩnh, phô trương, mời gọi. Có lẽ nếu cho hắn lên sân khấu với một cái microphone và một cái đàn guitar và để hắn rên rỉ, gào thét và múa may, thì chắc là trông hắn giống như một danh ca thật sự. Không có sân khấu, trông hắn chẳng có sức thuyết phục. Sau một thời gian ngắn, trông hắn chỉ giống như một người bị chứng nấc cụt trầm trọng — cái vẻ gợi tình liên tục của hắn trở nên nhàm chán và vô nghĩa.

Nếu thái độ hắn nhẹ nhàng hơn một chút, thì có lẽ Marjorie và Lily đã thích hắn. Có thể họ đã bày ra cái trò chơi là bảo hắn hãy khép cái miệng nhớp nhúa của hắn lại và đừng có quơ tay lung tung như thế. Thay vì vậy, họ nói họ chán ngấy hắn, và đó là họ nói thật. Có một lần, Marjorie cầm con dao mổ lên. “Hãy giữ khoảng cách của mày,” cô ta nói. “Tao muốn nói là đừng đụng tới tao, em tao và con bé kia.”

Cô ta không nói là hắn phải giữ khoảng cách với Gladys, bởi vì Gladys không có mặt lúc đó và có lẽ Marjorie thật ra cũng chẳng muốn bảo vệ cô ấy. Nhưng chính Gladys là người mà Brian muốn chọc ghẹo. Gladys liệng cái dao xuống, đi vào nhà vệ sinh và ở trong đó mười phút và đi ra với khuôn mặt lạnh như đá. Cô ra về, nhưng không còn nói là cô cảm thấy bệnh như trước nay cô vẫn thường nói. Marjorie nói là ông Morgan đã rất giận Gladys vì cô ăn nhờ ở đậu mà không chịu làm việc và ông sẽ không bỏ qua cho cô nữa đâu.

Gladys nói với tôi, “Chị không chịu được những thứ như thế. Chị không chịu được những người nói về những chuyện như thế và cái loại… những hành động như thế. Nó làm chị muốn ói mửa.”

Tôi tin cô ấy. Mặt cô tái nhợt một cách khủng khiếp. Nhưng tại sao, trong trường hợp đó, cô không phàn nàn với ông Morgan? Có lẽ mối quan hệ giữa họ rất khó chịu, hay có thể cô không muốn chính mình phải nhắc lại hoặc diễn tả lại những hành động như thế. Tại sao không có ai trong chúng tôi phàn nàn — nếu không phải với ông Morgan thì ít ra cũng phàn nàn với Herb chứ? Tôi chưa bao giờ nghĩ về điều này. Brian dường như chỉ là một cái gì đó mà tôi phải chịu đựng, cũng như chịu đựng sự lạnh cóng trong cái lán mổ này và mùi máu, mùi rác rưởi. Khi Marjorie và Lily dọa là sẽ phàn nàn, thì lý do lại là sự lười biếng của Brian.

Hắn không phải là thợ mổ giỏi. Hắn nói hai bàn tay hắn quá to. Vì thế Herb mang hắn ra khỏi khu mổ gà, bảo hắn quét dọn, đóng gói lòng gà, và chất hàng lên xe tải. Điều này có nghĩa là hắn không phải ở một chỗ nhất định hay làm một việc nhất định trong một thời gian nhất định, vì thế rất nhiều khi hắn chẳng làm gì cả. Thường thì hắn chùi sàn, rồi bỏ đó và đi lau bàn, rồi bỏ đó và hút một điếu thuốc, tựa vào cạnh bàn và làm phiền chúng tôi cho đến khi Herb kêu hắn ta giúp chất hàng. Herb lúc này rất bận rộn và mất rất nhiều thời gian để giao hàng, nên có lẽ anh không biết mức độ chây lười của Brian.

“Tao không hiểu sao Herb không đuổi việc mày,” Marjorie nói. “Tao đoán câu trả lời là tại vì anh ấy không muốn mày ăn nhờ ở đậu miễn phí trong nhà anh ấy, và vì mày không biết đi chỗ nào khác để ở.”

“Tôi có chỗ để đi,” Brian nói.

“Câm cái miệng ướt nhẹp của mày lại,” Marjorie nói. “Tao thấy tội cho Herb, anh ta bị kẹt cứng.”

Ngày cuối cùng ở trường trước Giáng Sinh chúng tôi được về sớm vào buổi chiều. Tôi về nhà thay quần áo và đi làm lúc khoảng ba giờ. Không có ai làm việc cả. Mọi người đều ở trong lán mổ, nơi ông Morgan Elliott đang huơ con dao phay trên bàn mổ và gào thét. Tôi không biết ông đang gào thét vì chuyện gì, và nghĩ rằng ai đó đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng trong công việc; có lẽ người đó là tôi. Và lúc đó tôi thấy Brian đang đứng phía bên kia cái bàn, với vẻ mặt nhăn nhó và bần tiện, và đứng lùi lại khá xa. Cái vẻ dâm đãng vẫn còn trên mặt hắn, nhưng có phần giảm bớt, trộn lẫn với một vẻ cay cú bất lực và đôi chút sợ sệt. Đây rồi, tôi nghĩ, Brian đang bị đuổi việc vì cẩu thả và lười biếng. Ngay cả lúc tôi nghe ông Morgan nói “dâm tặc”, “nhơ nhuốc” và “bệnh hoạn”, tôi vẫn nghĩ là Brian bị đuổi việc vì lười biếng. Marjorie, Lily và ngay cả cô Irene ăn mặc diêm dúa, cũng đang đứng xung quanh, với vẻ thất vọng và khá thành khẩn, giống như cử chỉ của trẻ con khi thấy ai đó bị la mắng ầm ĩ và đuổi ra khỏi trường. Chỉ có cụ Henry là dường như còn giữ được một nụ cười kín đáo trên khuôn mặt. Gladys không có mặt ở đó. Herb đứng gần ông Morgan hơn mọi người khác. Anh không can thiệp vào nhưng luôn để ý đến con dao phay. Morgy thì đang khóc lóc, nhưng trông anh ta không có vẻ như đang chịu đựng điều gì nguy hiểm đến tính mạng.

Ông Morgan gào lên, bảo Brian phải cút ngay. “Cút ngay khỏi thị trấn này — tao nói thật đấy — và đừng chờ đến ngày mai nếu mày còn muốn cái xác của mày nguyên vẹn! Cút ngay!” ông ta hét lên, và quơ con dao phay một cách đầy kịch tính về phía cửa. Brian bắt đầu đi về phía cửa nhưng, không biết hắn có cố ý hay không, cặp mông của hắn đưa qua đưa lại như trêu chọc. Điệu bộ này làm ông Morgan nổi điên và ông rượt theo hắn, quơ con dao phay như đang diễn trên sân khấu. Brian bỏ chạy, ông Morgan đuổi theo hắn, và cô Irene khóc thét lên, ôm lấy cái bụng bầu. Ông Morgan quá mập nên chẳng chạy nổi và có lẽ cũng không thể ném con dao phay quá xa. Herb đứng ở cửa ngó theo. Một lát sau, ông Morgan trở lại và liệng con dao phay lên bàn.

“Tất cả trở lại làm việc! Đừng có đứng trố mắt ra ở đây nữa! Tao không trả tiền cho tụi bây đứng đây mà trố mắt ra! Còn mày làm sao vậy?” Ông ta hỏi, nhìn thẳng vào mặt Irene.

“Dạ không có gì,” Irene trả lời một cách ngoan ngoãn.

“Nếu mày có vấn đề gì thì hãy rời khỏi nơi này.”

“Cháu không có sao mà.”

“Thế thì tốt!”

Chúng tôi trở lại công việc. Herb cởi chiếc áo choàng dính đầy máu, mặc chiếc áo khoác vào và bước ra ngoài, có lẽ anh đi xem thử Brian có kịp lên chiếc xe buýt cuối ngày hay không. Anh chẳng nói gì. Morgan và con trai ông đi ra sân, còn Irene và Henry thì đi sang lán bên cạnh, nơi họ nhổ lông gà, làm việc trong đống lông gà cao tới đầu gối mà lẽ ra Brian đã phải quét chúng đi rồi.
“Gladys đâu?” tôi hỏi nhỏ.

“Đang phục hồi thần trí,” Marjorie nói. Cô ta cũng nói nhỏ hơn thường ngày, và phục hồi thần trí cũng không phải là loại từ ngữ mà cô ta và Lyli thường dùng. Đó là những từ dùng để nói về Gladys, với ý định chế giễu.

Họ không muốn kể lại chuyện đã xảy ra, bởi họ ngại ông Morgan có thể quay lại và bắt gặp họ đang nói và sẽ đuổi việc họ. Những công nhân tốt như họ thì sợ bị đuổi việc. Ngoài ra, họ cũng đã chẳng thấy gì cả. Chắc họ đang bực mình vì họ đã không được chứng kiến. Sau này tôi mới biết là Brian đã làm gì đấy hay đã giơ cái gì đấy cho Gladys thấy khi cô ta vừa bước ra khỏi nhà vệ sinh, và cô ta bắt đầu la hét và trở nên hoảng loạn.

Có thể cô ta sẽ bị trầm cảm lần nữa, họ nói. Và hắn sẽ đi khỏi thị trấn này. Và đó là điều đáng mừng cho cả hai.

 o O o

Tôi có bức ảnh chụp cả toán nhân viên của Vựa Gà Tây trong Đêm Giáng Sinh. Nó được chụp với một máy ảnh tự động có đèn flash – một món quà Giáng Sinh đắt tiền của ai đó. Tôi nghĩ máy ảnh đó là của Irene. Nhưng Herb Abbott chắc hẳn là người đã chụp bức hình. Chỉ anh ấy mới là người có thể tin được là biết sử dụng hay tức khắc học cách sử dụng những thứ mới mẻ, và máy ảnh tự động là thứ khá mới mẻ lúc bấy giờ. Bức ảnh được chụp vào khoảng mười giờ Đêm Giáng Sinh, sau khi Herb và Morgy trở về từ chuyến giao hàng cuối cùng và sau khi chúng tôi đã rửa sạch bàn và lau nền nhà xi-măng. Chúng tôi cởi bỏ những cái áo choàng dính đầy máu và những chiếc áo lạnh dày cộm, rồi đi vào một phòng nhỏ gọi là phòng ăn, ở đó có một cái bàn và một lò sưởi. Chúng tôi vẫn mặc quần áo làm việc: quần yếm và áo. Đàn ông đội mũ, còn đàn bà buộc khăn tay trên đầu, theo kiểu thời chiến tranh. Trong ảnh, tôi trông rắn rỏi, tươi tắn và biểu lộ tình đồng đội, nghĩa là tôi biến thành một mẩu người mà tôi chẳng nhớ nổi có phải lúc ấy mình đúng là như thế hay giả vờ như thế. Tôi trông già hơn nhiều so với cái tuổi mười bốn. Irene là người duy nhất cởi chiếc khăn buộc tóc, để xõa mái tóc đỏ. Cô ta nổi bật với vẻ hiền hậu, khêu gợi và mời gọi, đúng như tiếng đồn về cô ta, nhưng hình ảnh đó không giống như dáng vẻ mà tôi nhớ về cô ta. Vâng, cái máy ảnh ấy chắc là của cô ta; cô ta làm dáng cho bức ảnh, với điệu bộ đó, rõ ràng cô ta có chủ ý hơn bất cứ ai khác. Marjorie và Lily thì mỉm cưới, đúng như cái cách của chính họ, nhưng nụ cười của họ có vẻ chua chát và bất cần. Với mái tóc giấu sau chiếc khăn, và với dáng vẻ ấy khi họ ở bên nhau, họ giống như hai chàng công nhân tháo vát, vui vẻ nhưng rất dễ nổi cáu. Khăn buộc tóc có vẻ không hợp với họ; mũ lưỡi trai có vẻ hợp hơn. Cụ Henry thì rất phấn khởi, hài lòng là một thành viên của nhóm, cười toác miệng và trông trẻ hơn tuổi của cụ khoảng hai mươi năm. Và Morgy, với dáng xấu hổ, không tin vào sự hào sảng của bữa tiệc thưởng công, và ông Morgan rất xúc động, ra dáng ông chủ và mãn nguyện. Ông vừa thưởng cho mỗi chúng tôi một con gà tây. Mỗi con gà đều mất một cánh hoặc một chân, hoặc mất một cái gì đó, và những con gà này không thể đem bán nguyên giá. Nhưng Morgan cố gắng nói với chúng tôi rằng thịt của những con gà khuyết tật là ngon nhất, và ông còn khoe cho chúng tôi thấy rằng chính ông cũng lấy một con như vậy đem về nhà.

Chúng tôi đều cầm những cái cốc hay những cái tách sứ to và dày, trong đó không phải đựng trà mà đựng rượu whisky làm bằng lúa mạch. Ông Morgan và cụ Henry đã uống từ chập tối. Marjorie và Lyli nói họ chỉ muốn nhấm nháp chút xíu thôi, và chỉ uống rượu vì bây giờ là Đêm Giáng Sinh và họ đang lạnh cóng chân. Irene nói cô ta cũng lạnh cóng chân, nhưng điều đó không có nghĩa là cô ta uống ít. Herb đã rót rượu một cách khá hào sảng không chỉ cho cô ta mà cho cả Marjorie và Lily nữa, và họ không hề từ chối. Anh đong từng chút rượu cho tôi và Morgy, một cách rất hà tiện, và đổ Coca-Cola vào. Đây là lần đầu tôi uống rượu, và kết quả là suốt nhiều năm sau tôi cứ tưởng rượu-lúa-mạch-pha-Coca-Cola là một loại thức uống tiêu chuẩn và tôi luôn yêu cầu loại thức uống này, cho đến khi tôi thấy chỉ có một vài người uống thứ rượu pha ấy và điều đó khiến tôi tá hỏa. Nhưng Đêm Giáng Sinh năm đó tôi chẳng bị gì cả; Herb đã không cho tôi uống nhiều đủ để tôi say. Ngoại trừ cái vị hơi lạ, và cảm giác riêng của tôi là sợ bị say, tôi đã uống thứ rượu pha ấy giống như uống Coca-Cola.

Tôi không cần có Herb trong bức ảnh để nhớ lại dung mạo của anh ấy. Nghĩa là lúc nào anh ấy cũng giống như chính anh ấy, trong suốt cả thời gian ở Vựa Gà Tây và vài lần tôi trông thấy anh ấy trên đường phố – vẫn đúng là cái dung mạo của anh ấy, mà lúc nào tôi thấy anh ấy cũng y như vậy, ngoại trừ một lần.

Cái lần anh ấy trông có vẻ khác với chính anh ấy là cái lúc mà ông Morgan đang nguyền rủa xua đuổi Brian và, sau đó, khi Brian đã chạy thoát ra ngoài đường. Sự khác biệt này là gì? Tôi cố nhớ lại, bởi vì lúc đó tôi đã ngắm anh ấy rất kỹ. Cũng không khác gì nhiều. Mặt anh ấy có vẻ tái hơn và tối hơn, và nếu bạn phải diễn tả sự biểu cảm trên khuôn mặt đó bạn có thể nói nó biểu lộ sự nhục nhã. Nhưng anh ấy cảm thấy nhục nhã vì điều gì? Nhục vì Brain, vì cái thái độ mà Brian đã ứng xử chăng? Chắc chắn lúc đó đã trễ rồi; vì có bao giờ Brian đã ứng xử khác đâu nào? Nhục vì Morgan đã phản ứng quá dữ dằn và đầy kịch tính? Hay nhục vì chính mình, bởi anh ấy nổi tiếng là người hay ngăn chặn những cuộc đánh lộn và cãi vã kiểu này ngay từ đầu, nhưng anh ấy lại không làm được điều đó ở đây? Hay anh ấy cảm thấy nhục vì đã không bênh vực cho Brian? Có phải anh ấy mong rằng đáng lẽ anh ấy phải làm điều đó, nghĩa là bênh vực cho Brian?

Đó là tất cả những điều tôi tự hỏi lúc bấy giờ. Sau này, khi tôi hiểu biết nhiều hơn, ít ra là về tình dục, tôi tin rằng Brian là người yêu của Herb, và Gladys đã cố gắng lôi kéo sự chú ý của Herb, và đó là lý do tại sao Brian đã làm nhục cô ấy – chẳng biết là có hay không có sự thông đồng và cho phép của Herb. Có thật là một người như Herb –  loại người nghiêm nghị, kín đáo, trọng danh dự –  lại thường thích loại người như Brian, lại đi phung phí tình yêu vô vọng cho một kẻ đồi bại, ngu xuẩn, một kẻ chưa phải là quỷ sứ, hay một con quái vật, nhưng là loại người chuyên gây ra phiền toái triền miên? Tôi tin rằng lúc ấy, với tất cả sự nhẹ nhàng và cẩn trọng của mình, Herb đã vì Brian mà oán ghét tất cả chúng tôi –  không phải chỉ riêng đối với Gladys, mà đối với tất cả chúng tôi –  và đó là cảm nghĩ của anh ấy khi tôi quan sát kỹ nét mặt anh ấy và thấy có một sự man dại và vẻ khinh bỉ hả hê. Nhưng đồng thời cũng có sự xấu hổ – xấu hổ cho Brian, cho cả anh ấy và cho cả Gladys, và ở một mức độ nào đó, xấu hổ cho tất cả chúng tôi. Nhục nhã cho tất cả chúng tôi – đó là điều tôi đã nghĩ vào lúc ấy.

Tuy nhiên sau này, tôi đã gạt bỏ lời giải thích này. Đã đến lúc tôi cần gạt bỏ những điều mà tôi không lý giải được. Giờ đây, tôi chỉ nghĩ đến khuôn mặt của Herb với vẻ biểu hiện khác thường và tổn thương; tôi nghĩ đến chuyện Brian đã làm trò khỉ đằng sau sự nghiêm trang của Herb; tôi nghĩ đến sự lưu tâm kín đáo của tôi đối với Herb, và ước muốn của tôi được làm tình với anh ấy, giá như tôi có bất cứ một cơ hội nào, để rồi tôi dọn đến và ở gần bên anh ấy. Quyến rũ làm sao, thú vị làm sao, cái triển vọng thân mật ấy, với chính con người không bao giờ ban phát điều ấy. Tôi vẫn còn cảm nhận được sự lôi cuốn của một người đàn ông như vậy, của sự hứa hẹn và từ chối của anh ấy. Tôi vẫn muốn biết những điều đó. Bất cần những sự kiện. Cũng bất cần những giả thuyết.

Khi tôi uống hết ly rượu tôi muốn nói một điều gì đó với Herb. Tôi đứng bên cạnh anh ấy và chờ cái khoảnh khắc anh ấy không lắng nghe ai hay không nói chuyện với ai, và chờ khi cuộc chuyện trò càng lúc càng nhốn nháo của những người khác có thể che giấu những điều tôi cần nói.

“Em lấy làm tiếc khi bạn anh phải đi khỏi nơi đây.”

“Điều đó cũng bình thường thôi.”

Herb nói một cách ôn tồn và với chút hài hước, và cử chỉ đó đã ngăn chặn tôi, không cho phép tôi có quyền tiếp tục nhìn vào hay nói về cuộc sống của anh ấy. Anh ấy biết tôi đang muốn gì. Chắc chắn anh ấy đã từng có nhiều kinh nghiệm về chuyện này, với rất nhiều phụ nữ. Anh ấy biết phải đối phó như thế nào.

Lily uống thêm một chút whisky trong cốc và kể chuyện cô ta và người bạn thân thiết nhất của cô ta (đã chết, vì bệnh gan) có lần đã cải trang thành đàn ông và trà trộn vào phía dành cho đàn ông trong quán bia, nơi có bảng hiệu CHỈ DÀNH CHO ĐÀN ÔNG, bởi vì họ muốn xem nơi đó như thế nào. Họ ngồi trong một góc và uống bia, mở to mắt và dỏng tai lên nghe, và không ai thèm nhìn họ đến lần thứ hai hoặc thắc mắc gì về họ, nhưng chẳng mấy chốc thì sự phiền toái xảy ra.

“Bọn tôi đi đâu bây giờ? Nếu bọn tôi đi trở lại chỗ của đám đàn bà, và bất cứ ai thấy bọn tôi đi vào nhà vệ sinh nữ, thì họ sẽ gào lên như có án mạng xảy ra. Còn nếu bọn tôi đi vào nhà vệ sinh nam, thì chắc chắn sẽ có người nhận ra là bọn tôi không đi tiểu đúng cách. Trong khi đó thì bia đang chảy xuyên qua bọn tôi như muốn nổ tung toé ra!”

“Khi bọn mày còn trẻ thì có thứ gì mà bọn mày không làm!” Marjorie nói.

Vài người nữa đưa ra lời khuyên cho tôi và Morgy. Họ nói chúng tôi nên vui chơi khi còn có thể. Họ bảo chúng tôi nên tránh xa mọi rắc rối. Họ nói họ đã qua thời tuổi trẻ. Herb nói rằng chúng tôi là một tập thể đoàn kết và đã làm việc rất tốt nhưng anh ấy không muốn làm phiền những ông chồng của đám phụ nữ vì đã giữ họ ở lại quá trễ. Marjorie và Lily biểu lộ sự thờ ơ đối với chồng của họ, nhưng Irene nói cô ta rất yêu chồng mình và sự thật không phải là anh ta đã bị lôi trở lại từ Detroit để cưới cô ta, mặc kệ ai muốn nói sao thì nói. Henry nói đó là một cuộc sống tốt nếu bạn không nản chí. Morgan nói ông chân thành cầu chúc mọi người một mùa Giáng Sinh vui vẻ nhất.

Chúng tôi rời Vựa Gà Tây trong khi tuyết đang rơi. Lyly nói phong cảnh giống như một tấm thiệp Giáng Sinh, và đúng là giống thật, tuyết bay quanh những ngọn đèn đường trong thị trấn và quanh những dãy đèn màu người ta trang trí trước sân nhà. Morgan cho Henry và Irene quá giang về nhà trên chiếc xe tải vì lòng ưu ái đối với người già, người có thai và mùa Giáng Sinh. Morgy lái xe theo đường tắt qua cánh đồng, còn Herb thì thả bộ về nhà, đầu cúi xuống và tay đút trong túi quần, bước chầm chậm, giống như anh đang ở trên boong một chiếc du thuyền trôi trên hồ. Marjorie và Lyli khoác tay với tôi như thể chúng tôi là những chiến hữu lâu năm.

“Tụi mình hát đi,” Lily đề nghị. “Hát cái gì bây giờ?”

“Hát bài ‘Ba Vua’ nhé?” Marjorie hỏi. “Hay bài ‘Chúng Ta, Ba Người Mổ Gà Tây?”

“Bài ‘Tôi Đang Mơ Một Đêm Giáng Sinh Đầy Tuyết Trắng.”

“Sao lại mơ? Mình đã có rồi mà.”

Và thế là chúng tôi cùng hát.

 AM
Bản dịch của Trần Minh Hương từ nguyên tác “The Turkey Season”, trong Alice Munro, Selected Stories (New York: Vintage Books, 1991) 289-311.