Theo tiểu sử trên trang Tiền Vệ, Võ Phiến tên thật Đoàn Thế Nhơn sinh ngày 30.10.1925 (khai sinh ghi 20.10.1925) tại Trà Bình, Trung Bình, Phù Mỹ, Bình Định. Ông đã xuất bản rất nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, phê bình, tiểu luận, dịch thuật, và cả thơ). Tác phẩm mới nhất: bộ sách phê bình Văn học Miền Nam, gồm 7 tập. Ông vừa qua đời ngày 28 tháng 9 năm 2015 tại Orange County, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 90 tuổi.
Thường, độc giả biết đến Võ Phiến qua những tác phẩm thuộc các thể loại khác, chứ không phải thơ. Như ba chữ “và cả thơ” ở trên, có vẻ như thơ là thể loại phụ thêm vào sự nghiệp văn học đồ sộ của ông. Quả vậy, Võ Phiến làm thơ không nhiều, chỉ đăng đây đó, dường như ông chưa từng in một tập thơ nào. Chúng tôi may mắn tìm được 4 bài thơ của ông trên trang Tiền Vệ.
Bốn bài thơ tự do này là những suy tưởng siêu hình về sự ngắn ngủi và nhỏ bé của kiếp người trước cái vô hạn của đấng Tạo hóa. Tuy nhiên, ẩn dưới cái đề tài có vẻ nghiêm trọng đó, thấp thoáng một nụ cười thâm trầm, khinh khoái, dí dỏm của tâm hồn nghệ sĩ, mẫn cảm và thông tuệ. Thận Nhiên.
Sự chờ đợi
Nó không hình không sắc
Tuyệt không có tiếng có lời
Nó không có gì. Chỉ là một sự chờ đợi lặng lẽ
Thế thôi.
Nó là sự chờ đợi từ vô thủy đến vô chung
Ai nấy lần lượt đến với nó, không ai gặp nó
Tất cả đều hướng về nó, như hướng về ý nghĩa cốt tủy của chính mình
Tất cả đi về hướng nó. Nó chờ.
Nó chờ một con kiến, nó chờ một con voi.
Nó chờ một hạt bụi, nó chờ một đoàn quân.
Trên dòng thời gian đang trôi, những kẻ xanh mặt bảo nhau: “Nó chờ.”
Những kẻ mặt xám như tro bảo nhau: “Nó chờ đấy.”
Những kẻ run rẩy, tắc cổ, nghẹn họng thì thào: “Sắp rồi. Nó thôi.”
Trông cái nắng ngoài song cửa, tôi nghĩ: Nó đang chờ.
Nhìn chiếc răng em trắng muốt, tôi thầm nghĩ: Nó đang chờ.
Mắt nhìn con chữ đang thành hình trên giấy, tôi kêu thầm trong trí: Nó đang chờ.
Sự chờ đợi không lời mỗi lúc mỗi thiết tha
Và mỗi khẩn trương.
12-1995
Nhà cũ
Tôi bước lên thềm, đi thẳng vào nhà sau
Khoảnh sân con. Bếp tro. Vò muối.
Chiếc phản, nơi cả nhà từng xúm xít
mỗi bữa cơm
Cánh cửa mở toang ra vườn
Bên hè, vò nước uống.
Một đứa bé đang cúi mình nghiêng xuống
Chợt ngoảnh lại, thấy nhau
Nó ngạc nhiên, sửng sốt. Thoáng cái, mất tiêu.
Mất tiêu trong nguyên dáng khom mình,
quơ tay tìm cán gáo.
Đứa bé bảy tám tuổi, gầy gò,
Không nhận ra tôi (tất nhiên)
Nhưng tôi nhận ra nó.
Một con chó lạ từ cuối vườn xăm xúi tiến vào
Ngẩng nhìn tôi. Ngỡ ngàng.
Hực một tiếng nhỏ. Quay ra.
Chui qua lỗ rào trống, bỏ đi.
Bên hè, vũng nước ướt
cạnh vò nước
tưởng vẫn còn ướt.
Nắng sáng vắng vẻ khắp vườn
Cái nắng trống trơ.
10/1999
Đấng vô ngôn
Từ khi Thượng Đế nhón ngón tay thả con xuống cõi trần, con đã đi — đều đều, chăm chỉ — như con kiến li ti trong hàng, không gây một tiếng động. Giờ này tiếp giờ kia, năm này qua năm nọ; kiến đi không một ai hay.
Con đã sinh nhai — chăm chỉ — như con cu đất trong bầy. Cắm cúi, lúc thúc, mổ từng hột lúa rơi, từng chiếc bông cỏ. Con chim kiếm ăn lặng lẽ, cần cù, bên cạnh gốc cây già lặng lẽ sù sì, bên cạnh những xác lá khô nằm lặng lẽ tan rã.
Con đã tiêu thụ từng hạt từng hạt tháng năm. Thời gian vơi dần.
Thượng Đế, từ lúc nhón ngón tay bỏ con xuống mặt đất này, Người có để mắt theo dõi con cái của Người sống ngoan ngoãn?
Người không từng phát biểu.
Thượng Đế không khua khuống. Thời gian không có tiếng khua. Nó mòn dần, không tiếng.
12-1998
Tiếng rú vô âm
Buổi sớm mai đang cùng ta cùng nhau thanh thản
Ngoảnh đi, trông lại: buổi sáng đâu còn đấy nữa!
Đã trượt sang trưa tự lúc nào.
Một cành non ưỡn à ưỡn ẹo lả lướt
Thoắt cái trân lại, cứng đờ, khẳng khiu, khô quắt.
Vạn vật không ngớt kêu lên hãi hùng
về nỗi bị cuốn trôi vùn vụt không ngừng.
Thuyền quyên ứ hự…
Thuyền quyên vừa mới giữa đồng
Thoắt cái, ngoái trông:
Thuyền quyên ứ hự, thuyền quyên đâu?
Cuối bàn tiệc thẫn thờ một ca nhân bạc nửa mái đầu.
Người bạn gái mơn mởn bên cạnh, ta đặt tay lên nàng, ấm áp.
Người bạn gái đang chuồi mình hối hả về phía ngày mai.
Vạn vật muôn loài im lìm không ngớt rú lên
02/2002
HOÀNG ĐÌNH BÌNH
TN