Vài nguyên liệu thông dụng trong sản phẩm trị vết nám
Những vết nám trên da, gọi là chloasma hoặc melasma, xuất hiện do nhiều nguyên nhân:
1. Vết nám từ tia cực tím trong ánh nắng mặt trời, loại vết nám này gọi là solar lentigenes, cũng có tên là “liver”, “sun”, hoặc “age” spots dù những vết nám này chẳng ăn nhậu chi đến gan cả.
2. Vết nám từ thuốc ngừa thai (birth control pills), thai nghén, hoặc việc chữa trị dùng estrogen, loại vết nám này gọi là “hormone” hoặc “pregnancy masking”.
Dù là loại vết nám nào, khi chữa trị, bác sĩ cần ước lượng độ sâu (depth) của vết nám, những vết nám thường cạn (superficial), nằm tại epidermis, “tẩy” những vết nám này chỉ cần dùng đến những sản phẩm “tẩy da”, skin-lightening. Ðôi khi, vệt nám nằm sâu trong dermis, cần dùng laser để lột da nhiều lần (laser resurfacing). Những hóa chất thông dụng trong sản phẩm “tẩy da” dùng ngoài da (topical) gồm có:
– Hydroquinone (2% – 4%) dùng riêng hoặc chung với tretinoin (0.05 – 0.1%): tại Hoa Kỳ, tuỳ theo lượng thuốc, loại sản phẩm này có thể bán theo toa bác sĩ (hydroquinone 4%) hoặc bán tự do (hydroquinone 2%). Mặc dù được gọi là “tẩy da” (skin bleaching), loại sản phẩm này thực ra làm da nhạt màu vì ngăn chặn việc melanin làm sẫm màu da. Biến chứng chính là đôi khi vùng da bị “tẩy” trở nên nhạt màu hơn vùng da chung quanh. Khi bạn mua một hũ kem chứa hydroquinone, kem sẽ mất hiệu quả sau một vài lần dùng vì nhiễm oxygen trong mỗi lần mở hũ. Nhớ nhé, bạn mua loại kem đựng trong những ống nhôm (non-transparent) đậy kín để có thể dùng lâu hơn vì ta cần 3-6 tháng mới thấy hiệu quả.
– Azelaic acid (15% – 20%) có tác dụng tương đương hydroquinone, khi dùng chung với hydroquinone 4%, rất hiệu nghiệm trong việc tẩy vết nám. Tuy nhiên, nguyên liệu này gây tấy đỏ, ngứa ngáy da thường hơn so với hydroquinone.
– Kojic acid: Kojic acid ngăn chặn (phân hóa tố tyrosinase) việc tạo ra melanin, vì vậy rất hiệu nghiệm trong việc tẩy vết nám. Tuy nhiên, kojic acid là một nguyên liệu rất dễ biến thể (unstable) khi gặp ánh sáng và không khí nên khó có thể giữ công dụng trong mỹ phẩm.
– Tretinoin (all-trans retinoic acid) có thể được dùng để làm trắng da, nguyên liệu này tạo ra sự lột da (epithelial turn-over), da tiếp tục thay, lớp da mới sẽ bớt nám so với lớp da cũ, bạn sẽ cần dùng khoảng 6 tháng mới thấy công hiệu (chậm hơn hydroquinone và những nguyên liệu khác). Tại Hoa Kỳ, những sản phẩm có tretinoin ở lượng 0.25% và 0.10% sẽ được bán theo toa bác sĩ. Biến chứng phụ của tretinoin là da tấy đỏ, khô, và ngứa ngáy khó chịu.
– Alpha hydroxy acid: đã nói trong bài trước
– Arbutin: là một loại hydroquinone lấy từ cây cỏ, lá bearberry, cranberry, blueberry và quả lê. Dế mèn chưa thấy tài liệu xác định về công dụng của loại nguyên liệu này ở bất cứ số lượng nào mặc dù đã có hãng mỹ phẩm dùng arbutin trong sản phẩm của họ, (Whitess Intensive Skin Brightener của Shiseido).
– Magnesium Ascorbyl Phosphate, một loại vitamin C: khi dùng ở lượng 10%, các bác sĩ da đã thấy công hiệu trong việc làm mờ vết nám. Tuy nhiên, hiện nay chẳng có loại sản phẩm nào trên thị trường chứa đựng vitamin C ở lượng 10%, hầu hết sản phẩm có vitamin C ở lượng <1%.
Collagen như một nguyên liệu trong mỹ phẩm
Collagen là một loại protein chính của mô liên kết (connective tissue).Có 12 loại collagen khác nhau, hầu như mỗi loại có công dụng riêng và nằm tại những cấu trúc khác nhau trong cơ thể. Riêng về da, collagen loại I và III là thành phần chính của mô liên kết dưới da, góp phần “sửa chữa” vết thương, tạo nên thẹo khi da bị rách, cắt, phỏng, hư hoại…
Khi có tuổi, sau nhiều năm ta chịu ảnh hưởng của trọng lực (gravity), cười, nói, nhai, nheo mắt, phỏng nắng…, những bắp thịt, mô liên kết, da trên mặt bắt đầu mất tính đàn hồi (elasticity) nên nhão và xụ xuống (sagging). Quanh mắt sẽ thấy vết chân chim, hai bên mép sẽ thấy vết “lo âu” và những nếp nhăn trên trán, trên má…Không có loại mỹ phẩm thoa trên da nào có thể xóa những dấu nhăn này. Qua giải phẫu thẩm mỹ, người ta dùng cách căng da mặt (face lift), dùng những loại mô để lấp đầy những nếp nhăn sâu gọi là “filler”. Fillers có hai loại chính: collagen và mỡ. Collagen được lấy ra từ súc vật như bò (bovine collagen) và chế biến để dùng chích vào da. Bác sĩ giải phẫu cũng có thể dùng mỡ lấy ra từ cơ thể (bụng, mông…) của chính người được chữa, nên gọi là autologus transplant, và chích vào má, thái dương…, những nơi cần lấp cho đầy. Sau khi chữa trị da sẽ bớt nhăn và khuôn mặt tươi trẻ hơn. Collagen bán trên thị trường Hoa Kỳ (dành cho bác sĩ) gồm Zyderm và Zyplast. Những loại “filler” khác như Fibril, Gortex cũng là những sản phẩm phải chích hoặc bơm vào da…
TLL