Menu Close

ỔI, Trái cây chữa bệnh đường Ruột

Người Việt miền Nam Việt Nam, nhất là người sinh sống trong vùng Châu Thổ sông Cửu Long, hoặc qua lại những bến đò Mỹ Thuận, Cần Thơ không thể nào quên nổi một trái cây thân yêu: Đó là trái Ổi, nhất là Ổi Xá-lị, với mùi vị thơm ngon đặc biệt. Ổi cũng theo chân người Việt trên bước đường tha hương nhưng Ổi tại Hoa Kỳ lại không phải là những trái Ổi ngày xưa.

ba bau an oi1

TÊN KHOA HỌC:

Psidium Guajava thuộc họ thực vật Myrtaceae. Người Mỹ gọi là Guava, người Pháp gọi dưới tên Goyave. Người Mễ gọi là Guayaba.

ĐẶC TÍNH THỰC VẬT VÀ LỊCH SỬ:

Ổi được xem như có nguồn gốc từ Brazil (hiện vẫn là nơi trồng nhiều nhất trên thế giới), và sau đó trở thành cây thương mãi quan trọng tại Hawaii, Úc, Ấn Độ, Mexico và các nước Đông Nam Á. tại Mỹ, Ổi được trồng nhiều ở Florida và California.

Tại Hoa Kỳ, ngoài giống Ổi nhiệt đới (Psidium Guajava), chỉ chịu khí hậu nóng ẩm và sẽ rụng hết lá khi khí hậu xuống 26 độ F. Còn một giống Ổi với trái nhỏ hơn, thường gọi là Strawberry Guava (Psidium Cattleianum) có thể chịu được khí hậu lạnh. Ổi thuộc loại tiểu mộc, với lá xanh quanh năm, những cành Ổi non có vỏ màu nâu đỏ, có thể tước được.

Ổi loại Strawberry có hoa màu trắng mọc đơn độc, cho trái nhỏ khoảng 2.5 – 5 cm, màu đỏ sau đó chuyển sang màu đỏ xậm và đen khi chín, có mùi thơm rất dễ chịu. Thịt màu trắng với vị vừa chua vừa ngọt. Loại Ổi này chỉ có thêm một giống lai tạo “Lucidum” với trái màu vàng.

Ổi nhiệt đới có thể cao đến 9-10m. Cũng có thể mọc thành bụi hoặc cây tiểu mộc đơn lẻ. Vỏ thân nhẵn, mỏng, khi già bong ra từng mảnh lớn. Lá hình thuôn dài cỡ 7-12cm, mọc đối xứng. Phiến lá thuôn hay hình trái xoan. Gân lá nổi rất rõ và có phủ một lớp lông mềm nhỏ ở mặt dưới. Cuống lá ngắn. Hoa màu trắng, thơm, có thể mọc đơn độc hay mọc từng đôi, 3 chiếc thành chùm ở nách lá. Trái có thể lớn cỡ 2.5 – 10cm hình cầu hoặc bầu dục, có nhiều hạt. Khi chín có màu vàng hoặc hồng nhạt, mùi thơm dễ chịu.

Cây thường trổ hoa vào mùa Hè để cho trái vào mùa Thu. Cây bắt đầu cho quả sau từ 2-3 năm tuổi. và rất thích hợp với vùng đất thông thoát nước, với độ acid của đất trồng khoảng 5-7, và cần nhiều ánh sáng mặt trời. Những giống Ổi nhiệt đới được ưa chuộng tại Hoa Kỳ gồm:

          Hong Kong Pink: trái cỡ trung bình, thịt của trái màu hồng nhạt.

          Indonesian Seedless: Thịt chắc, trắng và khá ngon. Ít hạt, có lẽ là Ổi xá-lị của Việt Nam.

          Mexican Cream: trái nhỏ, thịt màu trắng, ngọt.

          White Indian: trái nhỏ, vị chua.

THÀNH PHẦN HOÁ HỌC:

Thành phần dinh dưỡng của trái Ổi. 450g Ổi chứa:

          Calories 273 – Sắt  4mg
          Chất Đạm 3.5g – Vitamin A 1230 IU
          Chất Béo 1..6g – Vitamin B1 0.23mg
          Chất Bột 66g – Riboflavin 0.21mg
          Calcium 101mg – Niacin 5.1mg
          Phosphorus 185mg – Vitamin C 1065mg
          Potassium 150mg    

 

Lá Ổi: Lá Ổi thường được dùng để chữa bệnh trong Y Học dân gian, và có chứa: Những chất Tannins thuộc nhóm Phenolic; Sắc tố Chlorophyll; Những Flavonoids Glycoside chuyển hóa từ Quercetin.

DƯỢC TÍNH VÀ CÁCH XỬ DỤNG:

. Ổi trong thuốc Nam:

Theo Y Học Dân Gian Việt Nam thì Ổi có vị ngọt chát, tính bình. Các phần dùng làm thuốc gồm Lá, Thân, Vỏ cây. Thường được phơi nắng cho khô, cất để dùng khi cần đến. Ổi có tác dụng thu liễm (làm săn da), cầm tiêu chảy, trừ được sưng tấy và cầm máu. Ổi được dùng để trị các trường hợp đau bụng, tiêu chảy do tiêu hóa yếu, sưng ruột, kiết lỵ do nhiễm trùng (có thể dùng lá đã phơi khô hoặc sắc lá tươi lấy nước uống). Ổi cũng trị được chấn thương, ngứa ngoài da (giã nhuyễn lá tươi rồi đắp lên vết thương).

. Ổi trong Y- Dược Ayuravedic:

Y – Học Ấn Độ dùng Ổi tươi tên Amrud, với tiếng Phạn là Mansala. Vỏ cành Ổi để trị tiêu chảy, đau bụng (bao tử). Lá để trị ho và lở bên trong miệng. Trái Ổi được xem là có tác dụng nhuận trường (nên nhớ bỏ hột).

. Ổi trong Y Dược Trung Hoa:

Y Dược Trung Hoa tuy không xem Ổi là vị thuốc quan trọng nhưng tùy địa phương, việc dùng Ổi để trị những bệnh thông thường cũng khá phổ biến. Tại Trung Hoa, Ổi được gọi là Phan Thạch Lựu.

          Lá Ổi: được xem là có tính bình, vị ngọt. Dùng để ngừa kiết lỵ, trị tiêu chảy bằng cách đun 50g lá tươi trong 250ml nước đến sôi và uống trong ngày. Khi bị thương chảy máu, nhai lá Ổi và đắp để cầm máu.

          Trái Ổi: được xem là có vị ngọt, khí ôn có thể dùng để trị tiêu chảy, tiểu đường và bệnhh trĩ.

. Để trị Tiểu Đường: Xay nát 90g Ổi tươi bằng máy xay, lấy nước, uống mỗi ngày 3 lần trước khi ăn, giúp giải được khát do Tiểu Đường.

. Để trị Bệnh Trĩ: Đun 500g trái tươi với 1 lít nước đến khi cô đặc, thoa và rửa nơi Trĩ mỗi ngày 2-3 lần. Cũng có dùng nước cô đặc này để trị phong ngứa.

  • Ổi trong Y Học Dân Gian Nam Mỹ:

  Trong vùng West Indies, Lá Ổi được ngâm trong Rượu để trị các cơn co giật do kinh phong, bằng cách vừa uống vừa thoa thuốc rượu vào ngay cột xương sống. tại Panama, thổ dân Choco dùng Ổi chín để trị sưng cuống họng và khan tiếng cùng yếu phổi.

DƯỢC LỰC HỌC (Pharmacology)

  1. 1.Tác dụng Hạ Huyết Áp của Ổi:

Ổi chứa rất nhiều Vitamin C, một quả Ổi cung cấp số lượng Vitamin C nhiều gấp 300g lần lượng cần thiết hàng ngày. Một thử nghiệm tại Viện Nghiên Cứu Tim Mạch Moradabad (Ấn Độ) cho thấy trong 61 người ăn hàng ngày 450g Ổi tươi, trong 12 tuần lễ: Cholesterol hạ xuống được 27 điểm, lượng Triglycerides hạ xuống 8% và Huyết Áp hạ được từ 11 đến 13 điểm ở cả giai đoạn Tâm thu(Systolic) và Tâm trương (Diastolic). Tác dụng này có lẽ là do ở các Flavonoids trong Ổi.

  1. 2.Tác dụng của Lá Ổi trên Ruột:

Một cuộc nghiên cứu thực hiện tại Viện Đại Học Sains (Mã Lai) cho thấy: Các flavonoids thuộc nhóm Qyercetin trong Lá Ổi có tác dụng giống như chất Morphine (trong Thuốc Phiện) trên sự phóng thích Acetylcholine trong Ruột. Acetylcholine có tác dụng kích thích ruột và các cơ trơn khác của cơ thể. Cơ chế của phản ứng này được giải thích là do ở tác dụng của Qyercetin trong việc ngăn chặn các Ions Calcium và cả hệ thống phân hoá tố liên hệ đến sự tổng hợp Prostaglandins. Tác dụng này giúp giải thích được khả năng trị dịch tả của Lá Ổi và trị cả những cơn đau bụng do sự co thắt của các cơ trơn trong ruột.

Giáo sư Lutterrodt, người thực hiện cuộc nghiên cứu này (1989) còn mô tả một phương pháp chế biến cầu kỳ của Dược Học Trung Hoa trong việc dùng Lá ổi như sau:

Lá Ổi tươi được hái để dùng làm thực phẩm cho một giống Sâu Bọ đặc biệt Hepteropteryx dilate, có nơi còn dùng Bọ Ngựa (Ngựa Trời), sau đó thu lấy phân của sâu bọ, ngâm trong nước ấm và uống nước này để trị tiêu chảy và thổ tả.

  1. Tác dụng Sát Trùng:

Nước trích Lá Ổi và Hoa Ổi đều có tác dụng sát trùng trên một số vi khuẩn gây bệnh ngoài da như Staphyloccoccus. Điều này giải thích hợp lý cho việc dùng Lá Ổi để trị bệnh ngoài da, đắp vào vết thương tại các nước Á Châu.

Ngoài ra chất Tannins có nhiều trong Lá Ổi, tạo ra vị chát còn có đặc tính làm da săn và co mạch nên khi xử dụng bên ngoài để cầm máu rất tốt.

Ghi Chú: Tại các chợ thực phẩm Mỹ đôi khi có bán những trái cũng gọi là Guava, hình dáng rất giống Ổi và cũng lớn cỡ 2.5 – 7.5 cm đường kính, còn gọi là  Pineapple Guava hay Feijoas. Những trái này không liên hệ đến gia đình Ổi, tuy cùng chung họ thực vật.

Cây Feijoas, với tên khoa học là Feijoa sellowiana, khác với Ổi ở chỗ thịt của trái không cứng chắc mà nhão như thạch (xu-xoa) nên thường được ăn bằng cách xúc bằng muỗng. Feijoa cũng phát xuất từ Nam Mỹ vàđặc biệt là cũng như Kiwi (Thanh Đào), phát triển tốt nhất tại Tân Tây Lan và hiện được trồng nhiều tại California. Cũng như Ổi, Feijoa chứa nhiều Viatamin C nhưng lá của cây này không có các đặc tính trị bệnh như Ổi.

TVH